TÍN NGƯỠNG THỜ NỮ THẦN TRONG HỆ THỐNG TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VIỆT NAM

Thứ tư - 20/07/2022 22:24

Ảnh. Huỳnh Hà. https://baocantho.com.vn/tuc-tho-ba-ngu-hanh-o-nam-bo-a131894.html.

Ảnh. Huỳnh Hà. https://baocantho.com.vn/tuc-tho-ba-ngu-hanh-o-nam-bo-a131894.html.
PGS.TS Đỗ Lan Hiền, Viện Tôn giáo, tín ngưỡng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
 
Tóm tắt

       
Trong nhiều thế kỷ, ở Việt Nam, đã tồn tại một thiết chế chính trị, một chuẩn mực văn hóa dành nhiều quyền “ưu ái” cho phái nam hơn phái nữ. Cơ chế phụ quyền đó kéo dài quá lâu trong lịch sử khiến người phụ nữ trở nên “thích nghi hóa”, chấp nhận chịu phần “thua kém” và “phục tùng” người đàn ông một cách rất tự nhiên. Nếp sống gia trưởng (chồng chính vợ tùy), trọng nam khinh nữ (nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô) từ trong gia đình đến ngoài xã hội được tuân thủ lâu dài trở thành lẽ phải, thành gia phong, lệ làng, phép nước, những gì đi ngược lại nguyên tắc đó sẽ  bị coi là trái với phong tục và đạo lý.

      Song, tồn tại một điều khác lạ, nếu như ở lĩnh vực thế tục, yếu tố nữ có phần bị “xem nhẹ” thì trong lĩnh vực tâm linh của người Việt, yếu tố nữ lại có phần “nổi trội” và hình thành một hệ thống tín ngưỡng thờ Nữ thần, với điển hình được ghi nhận là tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, mẫu Liễu Hạnh. Vậy, cơ chế nào, lý do gì khiến yếu tố nữ “lên ngôi” trong hệ thống văn hóa tâm linh của người Việt và vai trò ra sao sẽ được bàn đến trong bài viết này.

1. Những biểu hiện nổi trội của yếu tố “nữ” trong hệ thống văn hóa tâm linh của người Việt

     Các nhà nghiên cứu văn hóa đã khẳng định, văn hóa của người Việt thiên về Mẫu/ Bà/ Mẹ/ Nữ tính hơn, với những biểu hiện được ghi nhận như: người phụ nữ Việt Nam (từ xưa đến nay) thường lấy chữ 'Thị' đặt cho tên đệm của mình, “Thị” theo nghĩa Hán tự [shi] chỉ chế độ Thị tộc là tổ chức xã hội đầu tiên của loài người sống tụ hợp theo huyết tộc (chung một tổ tiên). Tổ chức xã hội Thị tộc có thể dựa trên chế độ Mẫu quyền hay Phụ quyền, nhưng chắc chắn rằng, dấu vết của Mẫu hệ phải rất sâu đậm nên đã ghi lại dấu ấn trên tên đệm cho người phụ nữ đến tận ngày nay. Trong ngôn ngữ của người Việt, từ Cái (giống cái, nữ) được dùng để gọi tên rất nhiều vùng miền như Cái Mơn, Cái Cồn, Cái Răng (Tây Ninh), Cái Tàu Thượng (Hội An), Cái Nứa, Cái Đôi (Long An), Cái Bát, Cái Môn, Cái Sách (Tân Hưng, Long An), Cái Bè (Tiền Giang), Cái Mơn, Cái Nhum (Bến Tre), Cái Sơn Bé, Cái Muối, Cái Gà, Cái Tắc, Cái Cát, Cái Nhum, Cái Đa Trại, Cái Mít, Cái Cá, Cái Bông, Cái Nứa, Cái Sơn, Cái Vồn, Cái Cui (Vĩnh Long), Cái Cối (Trà Vinh), Cái Dứa, Cái Cái, Cái Tiêu (Đồng Tháp), Cái Sơn, Cái Dầu (An Giang), Cái Sắn (Hậu Giang), Cái Răng, Cái Sâu, Cái Gia, Cái Ðôi, Cái Côn (Cần Thơ)…
       Từ Cái còn được dùng để chỉ đồ vật, dụng cụ như cái nón, cái dao, cái rựa, cái nia, cái sàng, cái bàn, cái ghế, cái thước… Trong ngôn ngữ triết học có phạm trù Cái có - cái không, cái siêu nhiên, cái siêu việt, cái chủ quan, cái khách quan, cái chính, cái đẹp, cái xấu, cái tốt, … Trong giao tiếp, chỉ cái bắt tay, cái thân thiện, cái thân thương… Thậm chí, từ cái còn được dùng chỉ người đàn ông như cái anh chàng ấy, cái ngữ ấy, cái thứ đó… Thêm nữa, những gì to, lớn đều được gọi là cái (sông cái, đường cái, cột cái, ngón cái, trống cái, thúng cái...). Những gì cao cả, thiêng liêng, vĩ đại cũng được gắn liền với Mẹ (đất mẹ, mẹ Việt Nam anh hùng).
      Trong hệ thống tín ngưỡng, hình ảnh người phụ nữ cũng được đưa lên điện thờ, xem họ như một lực lượng siêu nhiên, chủ thể thế giới thần linh, bản thể sáng tạo ra vũ trụ, đại diện cho các vùng miền địa lý (sông, núi, đất đai, rừng) hình thành nên loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu (hay còn gọi là đạo Mẫu) rất đặc sắc của người Việt mà trên thế giới chưa có quốc gia nào có loại hình tín ngưỡng này.
      Năm 2016, người Việt vinh hạnh đón nhận sự vinh danh Tín ngưỡng thờ Mẫu là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vì những giá trị nổi bật của loại hình tín ngưỡng này trong số các loại hình tín ngưỡng dân gian của người Việt, vì sự phổ cập rộng rãi và truyền thống lâu đời của Tín ngưỡng thờ Mẫu, sự đóng góp tích cực của cộng đồng người Việt trên tất cả các vùng miền của Tổ quốc trong việc bảo tồn sức sống của Tín ngưỡng thờ Mẫu. Đặc biệt, còn là vì, sức lan tỏa rộng rãi của tín ngưỡng thờ Mẫu trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài như một bản sắc văn hóa truyền thống được duy trì, kế tục và phát triển.
     Trong danh sách các vị thần của người Việt, những vị thần gắn với bản thể của vũ trụ đều mang yếu tố nữ như Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ (Bà Kim, Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hỏa), Nữ thần Mặt Trời, Nữ thần Mặt Trăng, Bà Nữ Oa đội đá vá trời... Cùng với đó, các hiện tượng thiên nhiên như mây, mưa, sấm, chớp cũng được thánh hóa thành Nữ và Phật hóa thành Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện).
     Ở Việt Nam, chưa thống kê một cách chính xác có bao nhiêu Nữ thần. Theo cuốn “Hội chân biên”, in năm 1847 đời Thiệu Trị, do Thanh Hòa Tử tập hợp, trong số 27 vị thần tiên có nguồn gốc thuần Việt, có tới 17 vị là Tiên nữ. Trong cuốn “Các Nữ thần Việt Nam” đã tập hợp và giới thiệu bước đầu 75 vị Nữ thần tiêu biểu của Việt Nam. Trong cuốn “Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam” liệt kê cho thấy, trong số 1000 di tích, có 250 di tích thờ cúng các Nữ thần và danh nhân là nữ. Riêng xung quanh quần thể di tích Phủ Dầy (Nam Định) thờ Mẫu Liễu Hạnh đã có hơn 20 đền miếu thờ các nữ thần khác. Hiện tại, có hơn 1200 đền, miếu, phủ là cơ sở thờ tự của tín ngưỡng thờ Nữ thần, chưa kể đến hệ thống chùa Phật giáo có điện thờ Mẫu.
     Trong nhiều loại hình tín ngưỡng ở Việt Nam có sự hiện diện của yếu tố nữ nổi trội hơn yếu tố nam thể hiện trên những chiều cạnh sau:
      Thứ nhất, đối tượng được tôn thờ là Nữ.
    Trên điện thờ của đạo Mẫu tam phủ[1] bao gồm, Mẫu Thiên phủ, địa phủ, thủy phủ. Ba Mẫu này lần lượt tượng trưng cho 3 yếu tố: Trời, Đất và Nước. Tứ phủ có sự bổ sung thêm mẫu thượng ngàn, cai quản vùng rừng núi đất đai và sự sinh sôi của các sinh vật.
     Như vậy, người phụ nữ đã được đồng nhất với các vị thần tối cao có khả năng sáng tạo, bảo trợ  và che chở cho sự sống của con người. Ngoài ra, các nhân vật lịch sử có thật như hoàng thái hậu, hoàng hậu, công chúa và những người phụ nữ có công với nước, các nhân vật nữ gắn với các điển tích, huyền thoại đều được tôn thành các Nữ thần và được đưa vào các đền, chùa, miếu, phủ để thờ. 
    Hai là, chủ tế/ chủ lễ của các loại hình tín ngưỡng, trước đây, chủ yếu là phụ nữ. Đạo Mẫu gọi là các cô đồng, bà đồng. Hiện nay, xuất hiện thêm cô đồng là nam giới (gọi là cậu đồng, ông đồng) vì khi tham gia đứng giá hầu đồng, người chủ tế khi nhập đồng (ba bốn chục giá đồng) kéo dài 4 - 5 giờ đồng hồ liền, nếu không có sức khỏe tốt thì khó có thể thực hiện được một lễ hầu đồng trọn vẹn, do đó, đàn ông bắt đầu tham gia nhiều hơn trong vai trò chủ tế, nhưng những người đàn ông này khi đứng giá hầu đồng, làm lễ cũng phải hóa trang, tô son điểm phấn cho giống với phụ nữ, về mặt tâm sinh lý, ở họ ít nhiều có sự khác biệt ít nhiều về giới tính (trước đây thường gọi là Pêđê hay Gay).
     Ba là, tín đồ của tín ngưỡng thờ Mẫu cũng chủ yếu là phụ nữ, bởi phụ nữ là những người có nhiều thời gian nhàn rỗi hơn, là người chủ gia đình, coi sóc “âm phần” của cả gia đình, họ tộc, nên họ đi theo các buổi lễ, các buổi hầu đồng, đến các đền, chùa, miếu, phủ để cầu cúng cho cả gia đình được bình an, vô sự, ăn nên làm ra, tai qua nạn khỏi, cầu tiền tài, bổng lộc, con cái, địa vị, buôn rẻ bán đắt. Và để cầu xin được những điều hết sức thế tục đó họ thường đến “xin” ở ban Mẫu.
     Tín đồ của bản hội Mẫu không giống như tín đồ của các tôn giáo khác (không phải là những người được giáo hội thừa nhận, có đức tin tuyệt đối, phải thực hiện đầy đủ các lễ nghi, giới luật của tôn giáo đó). Tín đồ của tín ngưỡng thờ Nữ thần và của đạo Mẫu là những con nhang, đệ tử, những người đã làm lễ nhập hội, đã gửi bản mệnh của mình vào một đền, phủ nào đó hoặc chỉ cần có có lòng tin vào thánh Mẫu, họ đến cầu thánh Mẫu che trở. Hàng tháng, cứ ngày rằm, mồng một họ đến đền phủ, vào dịp lễ tết hay những buổi hầu đồng họ tham dự và cầu xin Thánh Mẫu ban tài lộc.
     Trong quan sát của chúng tôi, đối tượng tín đồ khu vực này đa phần là nữ, mặc dù như trên đã đề cập, các chủ lễ hiện nay xuất hiện nhiều nam giới, nam giới cũng là đối tượng tham gia nhiều trong các sinh hoạt lễ nghi, cúng tế.

 2. Lý do gì khiến yếu tố nữ “lên ngôi” trong hệ thống văn hóa tâm linh của người Việt

       Thứ nhất, yếu tố lịch sử, văn hóa
      Lịch sử văn hóa Đông phương nói chung và Việt Nam nói riêng là một cuộc điều chỉnh từ chế độ Mẫu hệ, Mẫu cư, Mẫu quyền sang Phụ hệ. Tổ chức xã hội Mẫu hệ và chế độ Mẫu quyền đã tồn tại khá lâu ở các quốc gia Đông phương do đó nó được bảo lưu và phản ánh rõ trong đời sống văn hoá, tôn giáo. Trong các truyền thuyết, thần thoại của người Việt đã phản ánh cho thấy dấu vết của chế độ Mẫu hệ: chuyện Trọng Thủy đi ở rể, chuyện Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, đẻ trăm con. Nữ trở thành biểu tượng của bản thể vũ trụ và cội nguồn vạn vật. Chuyện Mẹ Lúa, Mẹ Mía, Mẹ Lửa, và các Mẹ là tổ sư của các nghề: dệt, nuôi tằm, làm muối, nghề mộc, làm bánh,…  
     Yếu tố “nữ” còn ghi dấu ấn trên biểu tượng của các tôn giáo ngoại nhập. Theo Giáo hội Phật giáo, người Việt đã biến đức Quan Thế Âm Bồ Tát  từ một “Thiện Nam Tử” sang thành phái nữ mang danh Phật bà Quan Thế Âm[2]. Người Kitô hữu Việt nam dã mạnh dạn vượt lên trên giới định của Giáo hội chỉ cho phép tôn kính đức mẹ maria, không được tôn thờ[3], nhưng Kitô hữu Việt Nam mỗi khi họ gặp sầu bi, phiền muộn, khổ ải, hoạn nạn, họ vẫn cầu xin mẹ Maria che chở, soi xét (đặc biệt với ngư dân đi biển, sự sùng tín tôn thờ đức mẹ Maria càng rõ nét hơn).
      Trong khi đó, văn minh Tây Phương với những xã hội Âu Châu sinh sau đẻ muộn, ra đời khi nhân loại đã “nhảy vọt” qua khỏi thời kỳ Mẫu hệ chuyển sang chế độ Phụ hệ từ rất lâu, nên dấu tích của thời kỳ Mẫu hệ rất mờ nhạt, điều này có thể nhận thấy trong đặc trưng của Tin Lành giáo (ra đời ở thế kỷ XV ở Âu Châu), vai trò của Maria, theo tinh thần của thần học Tin Lành, một lần nữa, không còn quan trọng như trong Công Giáo hay Chính Thống giáo (xuất hiện trước đấy).
       Một số tộc người thiểu số của Việt Nam như người Chăm, người Êđê, Giarai, do ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa Trung Hoa, nên đến tận bây giờ, họ vẫn duy trì chế độ Mẫu hệ, vai trò của người phụ nữ vẫn rất lớn: chủ động trong hôn nhân, chồng về ở nhà vợ, con cái đặt tên theo họ mẹ...
        Thứ hai, nguyên nhân kinh tế, xã hội:
       Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới, gió mùa, nóng, ẩm, mưa nhiều, nhiều ao hồ, đầm lầy, sình bãi, nên thích hợp với nghề trồng trọt. Hoạt động kinh tế của người Việt cổ chủ yếu là nông nghiệp lúa nước. Vì là một nền kinh tế thuần nông, mặc dù rất cần đến sức lực cơ bắp của người đàn ông, nhưng với 4 yếu tố cơ bản: nước, phân, cần, giống, với kỹ thuật canh tác: cày, bừa, gieo, vãi, tỉa, cấy, trồng, gặt, đập, và một hệ thống thuỷ lợi tưới tiêu đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo, chuyên cần của con người, nên phần nhiều đều do bàn tay người phụ nữ đảm trách, quán xuyến (sớm ra ruộng lúa, tối về nương dâu, vai vác cái cày, tay đuổi con trâu, cái cuốc cho lẫn cái gầu, con dao rựa phát đèo đầu gánh phân...). Ngoài nông nghiệp ra, những ngành nghề phụ khác như đan lát, thuê thùa, trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải, chăn nuôi... cũng đều cần đến bàn tay của người phụ nữ. Việc buôn bán, tiểu thương cũng do người phụ nữ đảm trách, gánh vác. Có thể nói, người phụ nữ gần như là lao động chính và góp phần đáng kể vào việc sản xuất kinh tế hộ gia đình (ruộng sâu, trâu nái không bằng con gái đầu lòng), mọi việc nặng nhọc cũng đến lượt người đàn bà phải gánh vác (ngay cả việc đánh giặc). Với vai trò kinh tế của người phụ nữ như vậy, nên phụ nữ trở nên rất quan trọng trong gia đình, dù người đàn ông được coi là trụ cột, là chủ gia đình, nhưng việc “tay hòm chìa khóa” là do người vợ quản lý, nên dân gian mới có câu chồng như “cái giỏ”, vợ là “cái hom”, không có cái hom, bao nhiêu cá trong giỏ đều trôi đi hết (của chồng, công vợ).
        Thứ đến, sự phân công "nam ngoại nữ nội" đã hàm nghĩa phụ nữ là chủ gia hay còn gọi là  “nội tướng”, cai quản tài chính, kinh tế, gia sản, và có quyền thừa kế. Nhiều nước phương Tây, người phụ nữ góa chồng không được làm chủ tài sản (đàn bà nước Anh chỉ được thừa kế tài sản của chồng từ năm 1882). Người phụ nữ phương Tây lấy chồng phải mang tên chồng, không được giữ tên mình trong giấy tờ tùy thân. Phải đến tận năm 1920, phụ nữ Mỹ mới được quyền đi bỏ phiếu, năm 1928, phụ nữ Anh mới được quyền đi bầu cử...
          Với vị trí quan trọng về mặt kinh tế như vậy, nên dù chịu ảnh hưởng rất nặng nề của chế độ Phong kiến phụ quyền nhiều thế kỷ, nhưng văn hóa của người Việt vẫn thiên sang phần Mẫu tính, đây chính là một trong những cơ sở để người phụ nữ được tôn vinh và có được vị trí trong đời sống tâm linh và trên điện thờ như các bậc nam thần.
        Ngoài ra, trong quan hệ gia đình, người mẹ vẫn là số 1 (cha sinh không bằng mẹ dưỡng), hoặc ít ra cũng ngang hàng với người Cha (công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ, kính cha…). Trong quan hệ xã hội, người phụ nữ vẫn được coi trọng (có quyền xưng Vương: Bà Trưng, Bà Triệu); lệnh ông không bằng cồng bà. Người Việt cũng không quá coi rẻ, xem khinh người phụ nữ đến độ xếp họ vào hạng tiểu nhân, không hiện hữu[4]. Xã hội không quá bắt ép người phụ nữ phải tuân thủ một cách cứng nhắc lý thuyết Tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) của Nho giáo, không lên án hành vi tái giá, phụ nữ vẫn được phép học hành, được xã hội thừa nhận và đánh giá cao.
        Thứ ba, về tâm lý, ý thức
      Người Việt có lối suy tư phồn thực, đề cao những yếu tố Sinh, Dưỡng, Dục (Sinh sản/dục tính; Nuôi dưỡng; Giáo dục), mà những yếu tố đó, trong quan niệm của người Việt đều là thuộc tính của Mẫu: Người phụ nữ là cội nguồn của mọi sự sinh sản (mẹ Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng); người phụ nữ là trọng tâm và điều hòa mối quan hệ dục tính trong gia đình, người phụ nữ là biểu tượng cho sự trường tồn của giống nòi, cho ước vọng phong đăng, phồn thực, đâm chồi, nảy lộc, đơm hoa, kết trái; người mẹ cũng là trung tâm của gia đình, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái (cha sinh không bằng mẹ dưỡng, con hư tại mẹ, cháu hư tại bà, con dại cái mang, phúc đức tại mẫu).
       Người Việt dù rất sợ “Trời”, đã nhân cách hóa ông trời, xem đó là một lực lượng thánh thần có thể che chở, bảo vệ chúng sinh, cũng có thể trừng phạt kẻ ác và nuôi dưỡng vạn vật (Đèn trời soi xét; Ông trời có mắt; Ăn ở xởi lời thì Trời cởi cho, ăn ở quanh co Trời gò của lại; Ơn Trời mưa nắng phải thì; Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống lấy ruộng tôi cày; Làm một cái thang, ba mươi sáu nấc, bắc tự dưới đất, lên hỏi ông Trời, hỏi thăm duyên nợ để đời về sau, vv...). Song, người Việt vẫn đặt vị trí của “Ông Trời” ở bậc thứ hai sau “Vợ” (nhất Vợ, nhì Trời), điều đó cho thấy lối tư duy của người Việt chuộng thực tế, thiết thực.
     Trong một số loại hình tín ngưỡng cổ trên thế giới như tín ngưỡng thờ thần Mặt trời, việc tế lễ được thực hiện chỉ dành riêng cho phái nam tuyệt nhiên không có bóng dáng phụ nữ, phản ánh đặc trưng của chế độ phụ quyền cực đoan xuất hiện sau này. Song, trong tín ngưỡng Thờ thần mặt trời của người Việt, có sự hiện diện của phái nữ. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy trên một số vách đá, hang động ở Việt Nam những bức vẽ các buổi tế thần Mặt trời có sự tham gia của người đàn bà (thậm chí người đàn bà còn bụng mang dạ chửa), những bức vẽ thần Mặt trời là hình đĩa tròn không có tia sáng xung quanh (là biểu tượng của Âm/ Nữ), hình tròn có tia sáng xung quanh (là biểu tượng của Dương/ Nam )[5]. Sự hiện diện của cả hai phái nam, nữ trong cảnh tế lễ thần Mặt trời cho thấy xã hội Việt cổ còn giữ nguyên tinh thần Mẫu hệ, tôn thờ phái nữ.
      Nói tóm lại, tính Mẫu có phần nổi trội đó là cơ sở tâm lý cho sự hình thành thứ văn hóa thiên về âm tính, và là cơ sở ý thức cho sự hình thành tính trội của Nữ trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo. 
      Thứ tư, duy trì lối sống Mẫu hệ dù đang thực thi chế độ Phụ hệ, Phụ quyền.
     Bước sang thời kỳ Phụ hệ, chế độ phụ quyền đã được xác lập, nhưng các thị tộc Bách Việt[6] khi xưa vẫn duy trì chế độ Mẫu hệ trong lối sống. Với một nền kinh tế thuần nông, nên người Việt coi trọng Đất, mà Đất lại được gắn với yếu tố Âm - Nữ - Mẹ (trời Cha, đất Mẹ). Và cũng có lẽ, bởi người đàn bà quản hết kinh tế trong gia đình (quản gia) nên họ cũng là người quan trọng trong mối dây liên lạc với họ hàng, làng nước, quê hương, điều đó chứng tỏ, người phụ nữ có một vị trí rất quan trọng trong cuộc sống từ xa xưa cho đến tận ngày nay vẫn vậy. Với cư dân nông nghiệp định cư thì ngôi nhà và gian bếp được coi trọng, hai nơi quan trọng đó đều được gắn với vị trí của người đàn bà (Đàn ông cắm chà, đàn bà làm tổ; Xem trong bếp, biết nết đàn bà;...). Người vợ thường được gọi một cách trân trọng và tôn quý là “nhà tôi”.
      Việc “tranh chấp”, phản ứng quyết liệt, dữ dội của giới nữ khi chế độ Phụ quyền lên ngôi cũng được phản ánh và ghi chép một cách đầy đủ qua truyền thuyết, qua nền văn học bình dân và văn học bác học của người Việt[7].
      Lối sống duy tình, duy cảm (một bồ cái lý không bằng một tí cái tình) của người Việt cũng là một đặc trưng thể hiện thứ văn hóa thiên sang phần nữ tính, âm tính.
     Nói tóm lại, những chứng cứ về lịch sử, về kinh tế, văn hóa, tâm lý, ý thức và mọi nguồn tư liệu khác cũng đã cho thấy, vào thời kỳ khai thiên lập địa và nhiều thế kỷ sau này, vị trí, vai trò của người phụ nữ đã được khẳng định trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, không những thế, họ còn được tôn vinh, tôn thờ như những bậc thánh thần có một sức mạnh siêu nhiên, sáng tạo ra vũ trụ, muôn loài.

3. Vai trò của tín ngưỡng thờ Nữ thần trong đời sống xã hội

     Khi hình ảnh người phụ nữ được tôn vinh, tôn thờ như những bậc thánh thần trong thế giới tâm linh phản ánh cho thấy tinh thần bình đẳng giới.
    Tín ngưỡng thờ Nữ thần của người Việt cũng phản ánh cho thấy tính phong phú trong đối tượng thờ cúng của các loại hình tín ngưỡng dân gian của người Việt. Các Nữ thần có thể là Nhân thần, Nhiên thần. Có Nữ thần từ trong các huyền thoại, truyền thuyết đi ra. Có Nữ thần là người thật, có công trạng với dân, với làng, với nước, khi chết được tôn vinh, được thần thánh hoá. Có Nữ thần thuộc tầng lớp quyền quý trong xã hội, nhưng cũng có những Nữ thần xuất thân từ tầng lớp bình dân, nghèo khổ cũng được tôn vinh.
     Tín ngưỡng thờ Nữ thần của người Việt cũng phản ánh cho thấy tính khoan dung cởi mở của người Việt, có Nữ thần bản địa, có Nữ thần ngoại lại, có cả Nữ thần đại diện cho các tộc người, các vùng văn hóa khác nhau (miền thượng, miền xuôi). Việc tôn thờ Nữ thần còn định hướng con người tới lòng bao dung, vị tha như người mẹ.
     Tín ngưỡng thờ Nữ thần của người Việt phản ánh cho thấy vai trò của Mẫu/ Mẹ trong đời sống tinh thần của người Việt, phía sau sự tôn vinh, ngưỡng vọng, tôn thờ ấy chính là khát vọng phong đăng, phồn thực, no đủ, phồn vinh mà Mẫu/ Mẹ là biểu trưng điển hình cho khát vọng đó.
     Chế độ phụ quyền xuất hiện và kéo dài hàng nghìn năm ở Việt Nam đã trói buộc người phụ nữ trong một trật tự xã hội, một lễ giáo gia phong khắt khe, đôi khi cực đoan đã đè nặng lên đời sống vật chất và tinh thần của phái nữ, tín ngưỡng thờ Nữ thần sẽ góp phần khỏa lấp, vỗ về, an ủi cho sự tủi hờn về thân phận thấp hèn của người phụ nữ và là điểm tựa tinh thần to lớn để nâng đỡ người phụ nữ trong thế giới hiện thực. Nếu một vị thần trong hình hài là nam, tín đồ có thể cảm thấy sợ hãi, nhỏ bé, tự ti trước sức mạnh của Nam thần. Ngược lại, tín đồ sẽ cảm thấy an nhiên, tự tại trước Nữ thần, bởi nữ là biểu trưng của lòng bác ái, khoan hòa, hiền dịu. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà vị thế của Nữ thần có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tâm linh của người Việt.
      Trong các thần tích về Mẫu phản ánh vai trò, vị trí của người phụ nữ trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Mẫu Âu Cơ tạo dựng dòng giống Lạc Việt, Mẫu Liễu Hạnh chuyên lo việc khuyến thiện, trừng ác; Bà Chúa Xứ, Bà Đen, Bà Thiên Yana chuyên lo việc chữa bệnh, đuổi quỷ, trừ tà, giữ yên làng xóm. Bà Chúa Kho, Mẫu Phạm Thị, Bà Ba Đề Thám đều là những người có công trong các cuộc kháng chiến giữ nước. Dù xuất thân là nhân vật lịch sử có thật hay huyền thoại, nhưng vì các Mẫu đều có vai trò rất lớn trong lịch sử dân tộc nên các Nữ thần đã được “lịch sử hoá” hoặc biến các Nữ thần thành các nhân vật lịch sử có thật gắn với quá trình dựng nước và giữ nước của người Việt./.
 
 

[1] Mẫu Thượng Thiên (còn gọi là Mẫu đệ nhất) cai quản bầu trời. Mẫu Liễu Hạnh được coi là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên. Bà còn được tôn vinh trong hệ thống tứ bất tử. Mẫu Liễu Hạnh còn được thờ trong một tín ngưỡng riêng gọi là Tam Tòa Thánh Mẫu.
       Mẫu Thượng Ngàn (còn gọi là Mẫu Đệ Nhị) cai quản miền rừng núi.
      Mẫu Thượng Ngàn gắn bó với con người cùng cỏ, cây, chim, thú. Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ở nhiều nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính là Suối Mỡ (Bắc Giang) và Bắc Lệ (Lạng Sơn).

     Mẫu Thoải (hay Thủy) tức là bà mẹ Nước. Sự tích của bà đến nay chưa được rõ ràng, vì mỗi nơi hiểu theo một cách. Có thuyết nói bà là một vị thần lưỡng tính, cả nam cả nữ, có tên là Nhữ Nương. Tuy là đực cái chung nhau nhưng bóng âm tính nặng hơn, nên bà được kết hôn với vị vua dưới nước là Thủy Tề. Thượng đế phong cho bà làm Như Nương Nam Nữ Nam Hải Đại Vương. Nơi chính được thờ bà làm thành hoàng là làng Viêm Xá, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Có thuyết lại nói mẫu Thoải không phải là một bà mà chính là nhiều bà. Các bà đều là con của Lạc Long Quân. Trong số con cái sinh ra, Lạc Long Quân đã chọn ba người giao cho việc quản lĩnh sông biển nước Nam, đóng dinh cơ ở sông Nguyệt Đức. Một bà có hiệu là Thủy tinh động đình Ngọc nữ công chúa. Bà thứ hai có hiệu là Hoàng Bà đoan khiết phu nhân, và bà thứ ba là Tam giang công chúa. Công việc của các bà là coi sóc các sông biển, làm mưa và chống lụt giúp nhân dân. 
[2] Nguồn: web: Giáo hội Phật giáo Việt Nam/ Đức Quan Thế Âm bồ tát là Nam hay Nữ/: Trong kinh ĐẠI NHẬT và kinh BI HOA, đức Thích ca đã từng dạy rằng, đức Quan Thế Âm Bồ Tát đời quá khứ đã thành Phật, hiệu là chánh pháp Như Lai, vì nguyện độ sinh mà Ngài thị hiện làm thân Bồ tát. Cũng trong kinh BI HOA, đức Phật luôn luôn gọi đức Quan Thế Âm Bồ Tát là "Thiện-nam-tử". Do vậy, đức Quan Thế Âm Bồ Tát không thể là nữ nhân được.
Phật giáo Đại Thừa (Trung Hoa, Việt Nam) thường thờ cúng Quan Âm bên cạnh các vị Bồ Tát Phổ HiềnĐịa Tạng,Văn thù, xem đó là 4 vị Đại Bồ Tát. Quan Âm (hay Quán Thế Âm) có thể hiện thân trong mọi hình dạng để cứu độ chúng sinh. Phụ nữ hiếm muộn cũng hay cầu Quan Âm. Quan Âm cũng hay được nhắc tới bên cạnh Phật A-di-đà và trong kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm 25 với tên Phổ môn.
     Trong thần thoại, văn học dân gian, văn học bác học (tác phẩm Tây Du Ký của Trung Hoa) hay trong kinh sách nhà Phật (Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phổ môn), thì Quán Thế Âm Bồ Tát được xem là vị Bồ Tát có thần lực nhất, chỉ sau Phật Tổ là do Quan Âm là vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh và là Bồ Tát đặc trưng cho tinh thần “giác tha” của Phật giáo Đại thừa (có nghĩa là cứu vớt và giác ngộ người khác), cho nên Phật giáo Đại thừa đã nâng ngài lên tầm quan trọng ngang sau Phật tổ, làm tăng lòng sùng kính của người theo đạo Phật đối với Quán Âm. Trong các ngôi chùa Phật giáo Đại Thừa, trên điện thờ, thường chính giữa là tượng đức Phật Tổ, hai bên là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát. Ngoài ra, ở ngoài khuôn viên chùa hầu hết đều có tượng đức Quán Thế Âm mà ít thấy các vị Bồ Tát khác.
     Giả thuyết khác cho rằng, Phật Bà chính là hình ảnh của một công chúa nước (Ngô) Việt của Câu Tiễn ở vùng Chiết Giang vào khoảng năm 700 (Tr CN), mang tên Miao Shan. Chính công chúa Miao Shan đã chuyên cứu vớt, giúp đỡ thủy thủ có tàu bè bị đắm ngoài khơi quần đảo Chusan gần khu Chiết Giang ngày nay. 
[3] Theo tín lý của Công giáo, Chúa Giê-su Kitô là vừa là một Thiên Chúa, vừa là một con người thật, tức là Chúa vừa có Thần tính (divinity), vừa có Nhân tính (humanity), hai bản tính này không tách rời nhau, nên Mẹ Maria vừa là Mẹ thân xác sinh ra Chúa Kitô, cũng là Mẹ Thiên Chúa. Mặc dù, với địa vị cao trọng như vậy, nhưng Đức Mẹ không thể cao hơn Thiên Chúa là Đấng tạo dựng đã chọn Maria làm Mẹ Ngôi Hai (chúa con). Cho nên, Maria chỉ được tôn kính, trong khi Thiên Chúa được tôn thờ  (adoration) ở mức thờ phụng trong phụng vụ thánh lễ của Giáo Hội. Nghĩa là, tín đồ chỉ phải thờ lậy (adore), vinh danh  một mình Thiên Chúa mà thôi, không thờ lậy Đức Mẹ. Do đó, trong thực hành, người tín hữu phải cầu xin Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chứ không cầu xin Maria hay bất cứ Thánh Nam Nữ nào. Chỉ có Chúa mới là cội nguồn của mọi ơn phúc mà tín hữu cầu xin cho được. 
 
[4] Trong sách Luận Ngữ, có câu: “Duy nữ tiểu dữ tiểu nhân nan dưỡng dã, cận chi tắc bất ổn, viễn chi tắc oán” (Luận Ngữ, XII, tr.637), tức là người phụ nữ bị xếp hạng người tiểu nhân, khó đối xử cho vừa lòng, gần thì bất ổn, xa thì oán trách. Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô (một con trai coi như có, mười con gái coi như không), không có con trai nối dỗi tông đường là tội bất hiếu lớn nhất (bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại) 
[5] Trên bãi đá cổ ở Sapa được xác định thuộc thời kỳ Văn Hóa Đông Sơn, có những bức vẽ thần Mặt trời dưới hai hình thức: có tia sáng tỏa rạng (mang yếu tố dương), không có tia sáng, chỉ là các hình đĩa tròn (thể hiện yếu tố Âm).
[6] Bao hàm các dân tộc cổ chưa bị Hán hóa hoặc bị Hán hóa một phần đã từng sống ở vùng đất mà ngày nay thuộc lãnh thổ phía nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam (thiên kỷ I TCN đến thiên niên kỷ I CN). Bách việt cũng là từ cổ chỉ vùng đất mà các dân tộc này đã sinh sống. Từ Bách Việt lần đầu tiên thấy chép là trong Sử Ký (Ngô Khởi Truyện) của Tư Mã Thiên hoàn thành năm 91 TCN, trong đó có đề cập đến nhiều nhóm Bách Việt khác nhau như: Câu NgôƯ ViệtDương ViệtCán ViệtSơn ViệtDạ Lang, Điền ViệtMân ViệtSơn ViệtLạc ViệtÂu Việt, (hay còn gọi là Tây Âu). Các bộ tộc Bách Việt không phải là một khối thống nhất, giữa các bộ tộc này có nhiều sự khác nhau về địa bàn cư trú, văn hóa và ngôn ngữ. Tuy nhiên, các nhóm bộ tộc này đều không có chữ viết nên không để lại các văn bản ghi chép, do đó việc xác định chính xác về các thị tộc Bách việt gồm những tộc người nào là điều khó khăn..
[7] Ca dao của người Việt: Ba đồng một mớ đàn ông, đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha, ba trăm một mụ đàn bà, đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi. Người Việt cũng truyền tụng lại cho con cháu nhiều cốt chuyện cổ tích phản ánh đặc trưng của chế độ Mẫu hệ như Truyền thuyết Mỵ Nương, Trọng Thủy đi ở rể.
Thơ Nôm Hồ Xuân Hương có nhiều bài đả phá, diễu cợt cánh mày râu và tầng lớp quân tử.
 
 

Tác giả: Tư liệu - Thăng Long Library

Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://nukeviet.vn là vi phạm bản quyền

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập3
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm2
  • Hôm nay75
  • Tháng hiện tại49,779
  • Tổng lượt truy cập736,143
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây