TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁ TRỊ PHẬT GIÁO

Thứ tư - 19/05/2021 06:12
Nhân dịp Đại lễ Phật đản DL.2021 - PL.2565, kỷ niệm ngày đản sinh lần thứ 2645 của Đức Phật và kỷ niệm 131 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
 
Tóm tắt:
 
      Từ lý luận và thực tiễn đã đặt ra vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, nhận thức lại tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đầy đủ hơn, nhất là cần đẩy mạnh nghiên cứu tư tưởng của Người về giá trị Phật giáo, vì nó có ý nghĩa quan trọng đối với việc hình thành đạo đức, nhân cách, lối sống của mỗi con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là một hệ thống lý luận về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam mà còn là những định hướng quan trọng trong việc nhận thức và ứng xử về giá trị Phật giáo. Bởi vậy vấn đề nghiên cứu để nhận thức về những nội dung cụ thể nhằm vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị Phật giáo trong điều kiện ngày nay ở nước ta trở thành vấn đề cấp bách, cần thiết, nhằm xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng một xã hội mới.
      Từ các lý do như vậy, trong bài viết này, trên cơ sở tiếp thu các kết quả nghiên cứu của những người đi trước về tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng tôi đi sâu, hệ thống hóa một số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị Phật giáo mà cho đến nay vẫn chưa có chuyên đề riêng biệt từ cách tiếp cận triết học. Qua đó góp phần đánh giá, nhìn nhận  rõ hơn ý nghĩa tư tưởng về giá trị Phật giáo của Hồ Chí Minh trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
 
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, giá trị, giá trị Phật giáo.
Chuyên ngành: Triết học


    
 
1. Tính cấp thiết của đề tài tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị của Phật giáo
 
 
      Hiện nay, Đảng CSVN và Nhà nước CHXHCN Việt Nam nhận định tôn giáo là thực thể xã hội còn tồn tại lâu dài trong quá trình xây dựng theo định hướng XHCN, tôn giáo còn là nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Trong tôn giáo có những giá trị tốt đẹp về đạo đức, văn hóa, còn đồng thuận với sự nghiệp xây dựng xã hội mới, con người mới. Đảng CSVN khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [2, tr245]. Thành tựu nghiên cứu tôn giáo học gần đây đã nhất trí cho rằng:  Các giá trị đạo đức, văn hóa tôn giáo có giá trị lớn góp phần duy trì đạo đức xã hội, hoàn thiện nhân cách cá nhân. Điều này dựa trên cơ sở lí luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên cũng từ lý luận và thực tiễn đã đặt ra vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, nhận thức lại các tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đầy đủ hơn, nhất là cần đẩy mạnh việc tiếp tục nghiên cứu tư tưởng của Người về giá trị Phật giáo chính vì nó có ý nghĩa quan trọng đối với việc hình thành đạo đức, nhân cách, lối sống của mỗi con người. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có công trình, bài viết nào đi sâu vào chuyên đề này. Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là một hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam mà còn là những định hướng quan trọng trong việc nhận thức và ứng xử về giá trị Phật giáo, ảnh hưởng đến đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Bởi vậy nghiên cứu để vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị Phật giáo trong điều kiện ngày nay ở nước ta là vấn đề cấp bách, cần thiết, nhằm kế thừa và phát huy những tinh hoa văn hóa, đạo đức tốt đẹp của Phật giáo, nhằm xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng một xã hội mới. Từ các lý do như vậy, trong bài viết này, trên cơ sở tiếp thu kết quả của những người đi trước, chúng tôi đi sâu, hệ thống hóa một số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị Phật giáo. Qua đó góp phần đánh giá, nhìn nhận rõ hơn ý nghĩa nội dung tư tưởng đó của Hồ Chí Minh cụ thể hơn  trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
      Chúng tôi đồng thuận với cách tiếp cận, xem xét tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ dừng ở các bài viết, tác phẩm mà cần đi sâu vào cả hành trạng, hoạt động thực tiễn phong phú của Người. Cả cuộc đời của mình Hồ Chí Minh luôn chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc, xem trọng mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Người không ham địa vị, chức tước, danh vọng, không có tài sản riêng, tất cả những gì thuộc về Người đều trở nên gần gũi, thiêng liêng với nhân dân, với đất nước. Chính điều đó đã tạo nên một con người Hồ Chí Minh xuất chúng, một nhà tư tưởng, vị lãnh tụ của nước Việt Nam rất bình dị và gần gũi. Theo nhiều nhà nghiên cứu, điểm nổi bật nhất là Người đã sớm nhận thấy sự tương đồng giữa các giá trị đạo đức, văn hóa của các tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng với lí tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội của những người Cách mạng. Người nói rằng các tôn giáo và chủ nghĩa xã hội đều chung lí tưởng nhân ái, hòa bình, hữu nghị, hạnh phúc cho con người. Các tôn giáo trong đó có Phật giáo đều đưa ra con đường tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức tốt đẹp nhằm lợi lạc quần sinh. Hồ Chí Minh, nhiều lần nhắn nhủ đồng bào tín đồ các tôn giáo trong đó có các Phật tử, tôn giáo nào cũng cần được tôn trọng, bình đẳng, không kì thị, chia rẽ, phân biệt. Thực dân, phong kiến vì lợi ích giai cấp thống trị đã tìm mọi cách chia rẽ đồng bào theo các tôn giáo. Đồng bào phải hợp sức đại đoàn kết các tôn giáo để chống lại âm mưu chia để trị đó. Chỉ có đại đoàn kết toàn dân tộc giành lại độc lập tự do cho đất nước, các Phật tử cũng như các tín đồ theo các tôn giáo mới được bảo đảm quyền tự do. Vì vậy đồng bào các tôn giáo, trong đó có các Phật tử cần phải hăng hái, nỗ lực kháng chiến kiến quốc bảo vệ chủ quyền, phát triển đất nước.
       Ngày nay trong bối cảnh toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa hội nhập để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam mới tiên tiến, hiện đại mà vẫn đậm đà bản sắc, chúng ta cần phải biết trân trọng, chắt lọc những giá trị quý báu, tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, trong đó có việc trở lại nhận thức và vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh về các giá trị đạo đức, văn hóa ở các tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng. Chính Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc những giá trị tích cực của Phật giáo trong việc hoàn thiện nhân cách, con người cách mạng của mình.
       Các công trình nghiên cứu về cuộc đời hoạt động và tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh đều cho rằng, Bác tiếp thu giá trị đạo đức, nhân cách Phật giáo là xuất phát từ yêu cầu thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người đã chọn lựa, kế thừa sáng tạo những lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà hình thành nên tư tưởng về giá trị của Phật giáo trong hệ tư tưởng của Người. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến việc phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức cơ bản của Phật giáo, không chỉ dừng lại ở tư tưởng mà còn ở hành động thực tiễn.

               2. Một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị Phật giáo

       Hồ Chí Minh là người con của xứ Nghệ, trưởng thành tại xứ Huế, ở một đất nước Phật giáo du nhập từ sớm và là thành tố cấu thành nên giá trị văn hóa Việt Nam. Bởi vậy Phật giáo có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của Người. Và chính Hồ Chí Minh nói rằng, từ trong chiều sâu lịch sử dân tộc, Phật giáo Việt Nam đã góp phần hình thành nên những giá trị tích cực, nhân bản. Những giá trị và chuẩn mực đạo đức, văn hóa, lối sống mà Phật giáo đã hội nhập vào cuộc sống và được duy trì cho tới ngày nay. Việc nghiên cứu Hồ Chí Minh với Phật giáo tuy đã có nhiều công trình nhưng chưa có công trình nào tập trung đi sâu vào chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị Phật giáo. Vì thế từ lý luận và thực tiễn đặt ra yêu cầu nghiên cứu vấn đề này đầy đủ và hệ thống như đã nói ở trên. Hơn nữa chúng ta còn thấy trong di thảo Hồ Chí Minh nhấn mạnh đó là tư tưởng về phát huy tinh thần từ bi, hỷ xả, vô ngã vị tha; tư tưởng về phát huy các giá trị đạo đức, nhân văn và tinh thần đoàn kết trong Phật giáo.

          2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị tinh thần “từ bi, hỷ xả”, “vô ngã, vị tha” trong Phật giáo

       Xuất thân của Người ở miền Trung, sống trong một quốc gia có nhiều loại hình tôn giáo, tín ngưỡng đan xen, hòa quyện với nhau, nhưng vai trò Phật giáo dường như đứng ở vị trí nối kết dung thông, khoan hòa, khoan dung trong đời sống tâm linh. Điều này đã ảnh hưởng ít nhiều đến tư tưởng về giá trị của Phật giáo ở Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh sớm nhận thấy giá trị Phật giáo là một bộ phận cấu thành của văn hóa và là di sản của văn hóa của con người Việt Nam. Người lý giải rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như vì mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ phục vụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [6, tr 431].
       Hồ Chí Minh với sự tinh tế trong tâm hồn, sâu sắc trong trí tuệ, lịch lãm trong trải nghiệm đã sớm nhận ra những giá trị Phật giáo cấu thành văn hóa phong phú của dân tộc. Người cũng thấy được nỗi khổ của người dân mất nước, mất tự do về tín ngưỡng tôn giáo và quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân như là noi theo dấu chân đi tìm đường cứu khổ của Phật Thích ca Mâu ni.
     Bởi vậy lúc Người còn sống và ngày nay trong tâm thức đông đảo người dân Việt Nam, Người là hiện thân cho đức Phật sống của đất nước, giống như tấm gương Phật tổ. Nhận thức được sự đau khổ nơi trần gian, mong muốn được giải thoát và cầu giải thoát, Đức Phật đã xuất gia tìm con đường giác ngộ và xuất gia tìm đạo. Người nói: “Ta không muốn sống trong cung vàng điện ngọc, Ta không muốn sống trong cảnh vương giả trị vì thiên hạ, hưởng cuộc đời sung sướng cao sang trên mồ hôi nước mắt của lê dân. Ta không muốn sống trong xã hội bất công mà Ta đã chứng kiến. Ta quyết định ra đi, dù phải xông pha trên gió bụi lao lung, Ta cố tìm ra mối đạo giải thoát cho nhân loại muôn loài” [11, tr 33].
      Hồ Chí Minh nói rằng, giá trị lớn trong giáo lý đạo Phật là từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha, cứu khổ cứu nạn. Đây là ước vọng muôn đời của nhân loại muốn nhổ  tận gốc rễ của mọi khổ đau và giải thoát con người khỏi khổ đau trong cuộc sống, hướng con người tới cuộc sống an vui, tự tại.  Phật tổ hướng mục đích của  việc tu hành là sự “kết tinh bằng từ bi, trí tuệ, dũng mãnh, hướng dẫn chúng sinh đạt tới mục đích giác ngộ và giải thoát, chuyển cõi sa bà này thành cõi Tịnh độ và cuộc đời cơ cực này thành nếp sống cực lạc” [12, tr 318]. Trong hoàn cảnh Việt Nam khi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận vấn đề Phật giáo rất bình dị và thiêng liêng, gắn chặt với nhu cầu cuộc sống của con người nơi trần thế, Người viết: “Tôn chỉ mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui và no ấm” [13, tr 39].
     Trước nỗi đau mất nước, cả dân tộc đặt dưới ách đô hộ của chế độ thực dân phong kiến, chủ nghĩa đế quốc, Người đã quyết tâm ra đi tìm được cứu nước, mong cầu giải phóng dân tộc, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Tầm nhìn của người vượt xa qua không gian và thời gian đương thời. Ngày 5/1/1946, tại chùa Bà Đá, Người đã nói: “Trước Phật đài tôn nghiêm, trước quốc dân đồng bào có mặt tại đây, tôi xin thề hy sinh đem thân phấn đấu để giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc. Hy sinh, nếu cần đến hy sinh cả tính mạng, tôi cũng không từ” [14, tr12]. Noi theo tinh thần vô ngã vị tha Hồ chí Minh đã giành cả cuộc đời hy sinh, đấu tranh cho độc lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân và tình thương yêu con người vô bờ bến. Người nói: “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên” [1, tr2]; điều này giống với tinh thần “vô ngã” của đạo Phật, không nghĩ đến bản thân mình, luôn quên mình vì mọi người.
     Trải nghiệm nhiều nền văn hóa phong phú, thấu hiểu các tôn giáo phương Đông, phương Tây Hồ Chí Minh cho rằng, mục đích của tôn giáo nói chung cũng như Phật giáo nói riêng và mục đích của Hồ Chí Minh có thể nói là giống nhau, cùng mưu cầu sự hạnh phúc của con người. Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" [8, tr161-162].
      Cốt lõi của giáo lý đạo Phật khẳng định: “Nhân thị tối thắng” (con người cao hơn tất cả), còn với cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong bầu trời không có gì tốt đẹp vẻ vang bằng phục vụ lợi ích cho nhân dân”, “việc gì có lợi cho nhân dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh” [14, tr 12]. Chẳng thế mà, trong cách mạng Việt Nam, khi trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Người luôn trăn trở suy tư sao cho ít đổ máu hy sinh nhất, kể cả ta và địch.
     Để xảy ra cuộc chiến là điều bất đắc dĩ, còn một tia hi vọng vãn hồi hòa bình Người vẫn nỗ lực vận động thuyết phục đối phương. Trong việc khai thác những giá trị tích cực của tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, Hồ Chí Minh đã nhận định: “Chúa Giê Su dạy: Đạo đức là bác ái, Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi, Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa” [8, tr225]. Người nhiều lần tuyên truyền giáo dục cho nhân dân, cán bộ Đảng viên phải tuyệt đối tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không theo tín ngưỡng, tôn giáo. Người không bao giờ mảy may tạo ra sự hiểu lầm và hiềm khích về tín ngưỡng, tôn giáo. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ sự đồng thuận ở khát vọng cao cả của các tôn giáo là: “Mục tiêu cao cả của Phật Thích Ca và chúa Giê Su đều giống nhau: Thích Ca và Giê Su đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng”. Người còn chú trọng khai thác giá trị tấm gương, sự hy sinh cao cả của các vị sáng lập ra các tôn giáo để nêu gương trong giáo dục đồng bào các tôn giáo nói chung và đồng bào Phật tử nói riêng: “Đức Giê Su hy sinh vì muốn loài người tự do, hạnh phúc” [8, tr50] và Đức Phật phấn đấu suốt đời để: “Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha” [8, tr50].
     Hồ Chí Minh hiểu rõ tác dụng sức lan tỏa của các giá trị đạo đức cao cả, khoan dung trong các tín ngưỡng, tôn giáo đối với giáo dục nhân cách, nhất là tinh thần khoan dung Phật giáo nhằm xây dựng đạo đức cho đồng bào nói chung. Từ đó phát triển yêu cầu, nâng cao nêu gương đạo đức, giáo dục cho đội ngũ cán bộ cách mạng. Người đã kế thừa có bổ sung, phát triển nhiều khái niệm của Phật giáo như vô thường, vô ngã, từ bi,… rất nhiều khái niệm, phạm trù của đạo đức Công giáo như “kính chúa yêu người’’ “công bằng  bác ái’’, đặc biệt là của Nho giáo như “trung”, “hiếu”, “nhân”,… Song, Người đổi mới căn bản về nội dung cho phù hợp với yêu cầu mới  của sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Người đã vượt qua được giới hạn của lịch sử, của thiên kiến, hạn chế lập trường giai cấp cứng nhắc hướng về giá trị đích thực đạo đức con người trong các tôn giáo để kế thừa, nâng cao đổi mới nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc và nhân loại.
      Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị mặt tích cực như nêu trên thì trong thực tiễn hoạt động tôn giáo còn không ít trường hợp có những thế lực lợi dụng, xuyên tạc tôn giáo để xảy ra hiện tượng phi nhân tính, phản văn hóa trong hoạt động tôn giáo. Hồ Chí Minh, một mặt trân trọng, kế thừa mặt tích cực của Phật giáo, dưới góc độ văn hóa. Mặt khác, Người cũng luôn luôn nhắc nhở, cảnh tỉnh cần chú ý phê phán, loại trừ những hiện tượng phản văn hóa trong các hoạt động Phật giáo, như bói toán, đồng cốt, mê tín dị đoan… Hồ Chí Minh đã nhìn thấy ở Phật giáo cái khát vọng tự do và hạnh phúc của quần chúng bị áp bức, đau khổ, thấy rõ tính nhân văn của Phật giáo chân chính là hướng tín đồ, hướng nhân loại tới các giá trị hòa bình, bình đẳng, bắc ái, khuyên con người làm điều thiện và loại trừ cái ác. Khi có điều kiện thực thi quyền lực của người đứng đầu nhà nước Người đã quyết tâm xây dựng và hoàn thiện thể chế nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của mọi công dân được thực thi trong thực tế, phát huy được những giá trị tốt đẹp trong các tôn giáo, bảo đảm ngăn ngừa có hiệu quả các thế lực phản động lợi dụng tôn giáo vào các mục tiêu ngoài tôn giáo. Bảo vệ các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần đích thực của các tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng. Đó chính là những nội dung tư tưởng về Phật giáo có giá trị thể hiện sự nhảy vọt mới về chất trong tiến trình lịch sử Việt Nam của Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta, hôm nay rất cần sự nhận thức và vận dụng, phát huy sáng tạo trong điều kiện mới.

           2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, phẩm chất con người của Phật giáo

     Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã hiểu về giá trị quan điểm đạo đức đạo PhậtTứ diệu đế chính là một trong những tuệ giác sáng chói nhất của Đức Phật. Ngài đã tìm ra sự thật nỗi khổ của cuộc đời là bệnh, già, chết và sự phiền não  do vô minh luôn thường trực trong mỗi người, gọi đời là Khổ (Khổ đế); nguyên nhân của đau khổ là do chuỗi nhân quả được khởi lên và xoắn xuýt trùng điệp Khổ tập (Tập đế), và để dứt trừ nguyên nhân đau khổ cần thực hành theo bát chánh đạo các pháp môn tu tập, nhằm đạt tới giải thoát gọi là Khổ tập diệt (Diệt đế); cuối cùng và quan trọng nhất, con người trở thành đắc đạo là con đường đi tới hạnh phúc, an vui vĩnh cửu, là Khổ tập diệt đạo (Đạo đế).
     Hồ Chí Minh thời tuổi trẻ sớm hiểu giá trị của các quy phạm đạo đức của Phật giáo, như “ngũ giới”, “Thập thiện”, trong đó, các giới cấm trong ngũ giới là không sát sinh, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm, không được uống rượu có thể dùng để xây dựng nhân cách lý tưởng của con người. Để giải thoát con người khỏi đau khổ, đem lại an vui cho mọi người. Đức Phật dạy người tu hành phải chống “tam độc” mà gốc của nó chính là do “vô minh”. Để làm được điều đó, người tu hành phải giác ngộ, dùng ý thức, trí tuệ của mình để diệt trừ “tham, sân, si’’. Hồ Chí Minh rất chú trọng giáo dục đồng bào và các cán bộ, đảng viên phải thực hành việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức một cách tự giác để có thể nhân lên sức mạnh nội lực cho cách mạng thắng lợi.
     Hồ Chí Minh  nhiều lần khẳng định giá trị nội tỉnh tự giác giác tha trong đạo đức Phật giáo thể hiện ở mục tiêu thiêng liêng là đưa lại hạnh phúc và an lạc cho chúng sinh. Nguyên tắc chung của Phật giáo là dạy cho chúng sinh tự lực phấn đấu, đề cao long từ bi, vô ngã, vị tha, làm điều thiện, tránh điều ác. Phật giáo luôn khuyến khích chúng sinh “tự độ độ tha, tự giác giác tha”. Trong Thư gửi Đại hội lần thứ III Hội Phật giáo Thống nhất Việt nam ngày 28/9/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tôi mong rằng đồng bào Phật giáo hãy thực hiện lời Phật dạy “lợi lạc quần sinh, vô ngã, vị tha, là tất cả vì lợi ích mọi người, không cá nhân chủ nghĩa”.
     Hồ Chí  Minh nhận thức về các lý tưởng tự do bình đẳng trong Phật giáo. Khát vọng về công bằng xã hội, về con đường giải thoát và tự tại nơi trần thế, Đức Phật đã nêu lên như một quy luật, cô đọng lại trong lời dạy nổi tiếng và mang tính “vượt thời gian” [15]: “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn. Mỗi người khi mới sanh không phải có sẵn dấu tin-ca (tilca) trên trán, không đeo sẵn dây chuyền trong cổ” [4, tr92-93].
     Người luôn nhận rõ những giá trị tốt đẹp của Phật giáo, có thái độ gần gũi và sự gặp gỡ giữa tư tưởng Phật giáo với tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đạo đức, vấn đề giải phóng con người. Do đó, Hồ Chí Minh bao giờ cũng nhìn nhận giá trị Phật giáo với một thái độ trân trọng và quý mến: “Nền tảng và truyền thống của triết học Ấn Độ là lý tưởng hòa bình bác ái. Liên tiếp trong nhiều thế kỷ, tư tưởng của Phật giáo, nghệ thuật khoa học Ấn Độ đã lan khắp thế giới” [7, tr201].  Bởi thế cựu bộ trưởng Bộ Văn hóa Cù Huy Cận đã có nhận xét: “Khi bình sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn có một tấm lòng kính mộ sâu sắc và cảm động đối với Đức Phật Thích Ca – người sáng lập ra đạo Phật, cũng như đối với tất cả các vị sáng lập những tôn giáo lớn. Người đã cảm nhận ở các vị giáo chủ này trước hết là lòng thương cảm sâu sắc đối với số phận của những chúng sinh và ý muốn thiết tha làm sao giảm nhẹ hoặc xóa bỏ những nỗi đau khổ của con người trên trái đất” [3].
      Trong giáo lý nhà Phật, Đức Phật dạy các đệ tử: “Này các Tỳ kheo! Hãy tu hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho chư Thiên và loài người” (Tương Ưng Bộ kinh); “Này các Tỳ kheo! Xưa và nay Ta chỉ nói lên sự khổ và diệt khổ” (Trung Bộ kinh). Hồ Chí Minh  kế thừa và nâng cao giá trị đó luôn có cái tâm từ bi, hướng thiện, luôn đau đáu về nỗi đau của nhân dân, của dân tộc mình  và cuả nhân loại. Xuất phát từ cái tâm cao thượng như trong đạo Phật, Người luôn hành động sáng tạo quên mình vì đất nước, vì Tổ quốc, vì hạnh phúc, ấm no của nhân dân. Bên cạnh đó, với lập trường Mác xít Người cũng chú trọng tiếp thu tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc và của nhân loại đạt đến “đức hiếu sinh”, không chỉ xây dựng cơ sở  pháp lý và thể chế để hiện thực hóa cái đúng, cái thiện, cái đẹp ngăn chặn việc ác mà còn “làm cho phần thiện trong mỗi con người nảy nở” [10, tr558].
 
      Hồ Chí Minh đã nhận thức được giá trị của tăng ni trong việc thực hiện và lan tỏa các giá trị đạo đức, tu dưỡng nên nhân cách con người Việt Nam. Khi nói chuyện với Tăng Ni, tín đồ Phật tử ở đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị: “Tôi mong các Hòa thượng, Tăng Ni và Phật tử hãy tích cực thực hiện tinh thần Từ bi, Vô ngã, Vị tha trong sự nghiệp cứu nước, giữ nước và giữ đạo để cùng toàn dân sống trong Độc lập, Tự do, Hạnh phúc” [12, tr321-322]. Hồ Chí Minh  còn  khẳng định, đạo đức là gốc của người cách mạng, do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn nêu gương hy sinh quyền lợi cá nhân vì tập thể, dân tộc, trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức theo các tiêu chí: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, yêu thương đồng bào, đồng chí với tinh thần vô ngã, vị tha ,…
      Chữ “chính” trong giáo lý nhà Phật luôn được nhấn mạnh trong suốt quá trình tu hành, đức “chính” toàn diện từ tư duy đến hành động, từ lời nói đến việc làm, nhằm hướng thiện, loại bỏ cái tà, cái ác… Hiểu rõ điều đó Hồ Chí Minh nói: “Đức Phật dạy tín đồ, con người thông hiểu, tu hành từ muôn vàn giáo lý, đặng kết đọng hướng tới sống theo đức hạnh cao nhất: “Hãy gấp làm điều thiện, ngăn tâm làm điều ác” [5] và khẳng định: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là chuẩn mực đạo đức cao quý của con người.
       Như vậy, Hồ Chí Minh thấy được giá trị cuả các chuẩn mực đạo đức,vai trò quan trọng cuả lối sống đạo hạnh Phật giáo, có sức ảnh hưởng rộng rãi trong xã hội của các tăng ni, giá trị đạo đức và lối sống tốt đẹp đó Người đã tự nêu lên và thực hành làm gương. Người đã kế thừa và nâng cao lấy đó bổ sung, định hướng xây dựng nền đạo đức mới cách mạng cho Việt Nam.

                  2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy giá trị đoàn kết, khoan dung của Phật giáo

        Hồ Chí Minh từ rất sớm đã nhận ra giá trị khoan dung hòa hợp trong văn hóa Việt nam và trong giáo lý nhà Phật. Trong kinh Trung bộ III có nhiều chỗ chép lời Đức Phật dạy về tư tưởng lục hoà, đó là 6 nguyên tắc sống hoà hợp, đoàn kết trong tình thân thương của cộng đồng những người đệ tử của đức Phật là tại gia cũng như xuất gia. Đối với lối sống Phật giáo, bên trong luôn lấy tinh thầntừ bi, trí huệ, giải thoát, hòa hợp làm cơ sở, bên ngoài lấy tinh thần nhẫn nhịn, đoàn kết, phụng sự  tha nhân sự góp phần xây dựng xã hội bằng những hình thức hoằng pháp, từ thiện, xây dựng nhân tâm làm mục tiêu hoạt động. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử  nhất là từ khi thành lập tổ chức thống nhất Giáo hội Phật giáo Việt Nam, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh với phương châm “đoàn kết, hòa hợp, trưởng dưỡng đạo tâm, trang nghiêm giáo hội; hoằng pháp, lợi sanh, thực hiện phương châm đạo pháp dân tộc” đã góp phần khẳng định  giá trị  đoàn kết, hòa hợp của Phật giáo Việt Nam.
        Trong thư gửi đồng bào Phật tử năm 1957, Hồ Chí Minh khẳng định tôn chỉ của đạo Phật là nhằm xây dựng một cuộc sống bình đẳng, no ấm và yên vui. Người cũng khen ngợi về những đóng góp của đồng bào Phật tử cho cuộc kháng chiến đồng thời kêu gọi tăng, ni, Phật tử đoàn kết, góp phần xây dựng hòa bình, ngăn chặn âm mưu của kẻ thù lợi dụng vấn đề tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Hồ Chí Minh viết: “Tôi có lời khen ngợi các vị tăng, ni và tín đồ đã sẵn lòng nồng nàn yêu nước, hăng hái làm tròn nghĩa vụ của người công dân và xứng đáng là Phật tử... Trong cải cách ruộng đất, tuy có nơi đã vi phạm sai lầm trong việc thực hiện chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhưng Đảng và Chính phủ đã có chính sách kiên quyết sữa chữa. Hiện nay... đời sống nhân dân dần dần càng được cải thiện, cũng giống như tôn chỉ mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui no ấm... Tôi mong các vị tăng, ni và đồng bào tín đồ đã đoàn kết thì càng đoàn kết hơn để góp phần xây dựng hòa bình chóng thắng lợi. Hãy ra sức giúp đỡ cán bộ, hăng hái thực hiện mọi công tác của Chính phủ, chấp hành đúng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, ngăn chặn âm mưu của Mỹ - Diệm và bọn tay sai lợi dụng tôn giáo hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, hãy ra sức đấu tranh giành thống nhất đất nước” [9, tr290-291].
        Khi đất nước bị chia cắt làm hai miền, chính quyền chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách kỳ thị tôn giáo, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi Tăng Ni, Phật tử: “Hãy ra sức giúp đỡ cán bộ, hăng hái thực hiện mọi công tác của Chính phủ, chấp hành đúng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, ngăn chặn âm mưu của Mỹ – Diệm và bọn tay sai chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, hãy ra sức đấu tranh giành thống nhất đất nước” [8, tr39]. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng đánh giá cao những đóng góp, hy sinh của tăng ni, tín đồ Phật giáo trong hai cuộc kháng chiến cứu nước. Trong thư gửi Đại hội 3, Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam, Người đã viết: “Các vị Tăng Ni, tín đồ Phật giáo trước đây có công với kháng chiến, nay thì đang góp sức cùng toàn dân xây dựng miền Bắc giàu mạnh và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà” [8, tr39].
        Khi ở cương vị lãnh đạo, Hồ Chủ tịch luôn quan tâm tới nhu cầu chính đáng của mọi người nhất là đồng bào tôn giáo, các Phật tử; Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải làm sao cho đồng bào có đạo được phần xác ấm no, phần hồn thong dong. Thực tiễn trong cách mạng Việt Nam đã chứng minh, bất cứ ở đâu và khi nào mà những người lãnh đạo có trách nhiệm quán triệt theo tư tưởng Hồ Chí Minh quan tâm giải quyết thỏa đáng hai nhu cầu vật chất và tinh thần thì đồng bào tôn giáo nói chung, đồng bào Phật  giáo nói riêng sẽ an tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sẽ sống và hành đạo đúng đắn. Các tín đồ và chức sắc, các tăng ni Phật tử trước hết là những công dân; họ có quyền lợi và nghĩa vụ như những công dân khác, họ mong muốn được sống “tốt đời, đẹp đạo”, “yêu nước” theo Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã nêu: “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”.

                3. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ Đổi mới

        Hiện nay, sau 30 năm đất nước đổi mới những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về các giá trị của Phật giáo đã được khẳng định và đang đặt ra yêu cầu cấp bách mới  từ thực tiễn.
 
       Ngay từ năm 1982, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát động phong trào “Học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh”. Ngày 27/3/2003 Bộ Chính trị ra Chỉ thị 23-CT/TW về việc thực hiện cuộc vận động và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh. Sau 3 năm thực hiện đã tổng kết vào ngày 07/01/2007 Bộ Chính trị ra nhận định: cuộc vận động đã gây được chuyển biến tốt cho công cuộc đổi mới. Kế thừa hiệu quả của việc thực hiện chủ trương trên Bộ Chính trị tiếp tục phát động đợt thi đua “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh” cho toàn hệ thống từ ngày 03/02/2007 cho đến hết Đại hội XI. Kết quả đánh giá cuộc vận động này đã nhận định: nó đã giúp cho việc thẩm thấu trong toàn Đảng, toàn dân những giá trị đạo đức của Hồ Chí Minh trong đó có những giá trị đạo đức văn hóa của Phật giáo như tư tưởng hòa bình, thương người, từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha, lối sống có trách nhiệm với người khác. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã gắn yêu cầu của việc thực hiện nội dung Nghị quyết XI với yêu cầu cụ thể rèn luyện các phẩm chất năng lực của cán bộ, đảng viên theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh.
       Vào cuối đợt vận động đã có sự tổng kết đánh giá cao kết quả thực hiện, theo bài viết mới nhất của Phạm Văn Linh trên Báo Nhân dân (ngày 17/5/2015) được đăng lại vào ngày 12/02/2018: kết quả việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW trong năm 2012 được đánh giá cao xếp thứ 3 trong việc đạt chỉ tiêu. Năm 2014 cũng đạt kết quả cao, xếp thứ 2 trong việc đạt chỉ tiêu đề ra.
       Không dừng lại ở đó mà chúng ta thấy rõ trong văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Nhất là yêu cầu mỗi đảng viên phải tự mình nêu gương làm đầu tầu cho cộng đồng noi theo, theo mẫu mực đạo đức Hồ Chí Minh. Vì vậy Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra chỉ thị 05-CT/TW: Tiếp tục đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Và khẳng định đây là nội dung mà toàn Đảng, toàn dân phải thực hiện thường xuyên, liên tục nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đủ sức lãnh đạo trong bối cảnh hội nhập mở cửa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có nghĩa là hiện nay cả nước đang kiên định phấn đấu theo con đường mà Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn, trong đó có việc kế thừa và phát triển những nội dung giá trị tốt đẹp mà Hồ Chí Minh đã thẩm thấu, thực hiện, làm gương.
        Qua tìm hiểu của chúng tôi, kết quả điều tra dư luận xã hội về việc thực hiện các Chỉ thị 03 – CT/TW và Chỉ 05 – CT/TW được đánh giá cao. Rất nhiều phản hồi từ các đơn vị, ban ngành, địa phương đều khẳng định sự cần thiết và hiệu quả thiết thực của cuộc vận động này. Điều này cho thấy sự nhất quán và quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân hướng về tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh mà trong đó được cấu thành từ cội nguồn tư tưởng dân tộc, Phật giáo. Tuy nhiên đã đến lúc nhận thức rằng bên cạnh một số giá trị, thành tựu thì hiện nay tại một số địa phương, ban ngành, cá nhân việc nhận thức về giá trị đạo đức Hồ Chí Minh và quyết tâm thực hiện nó còn chưa cao, còn nhiều biểu hiện sa sút về đạo đức, nhân cách mà trong một thời gian ngắn chưa thể loại bỏ hết.
        Chúng tôi cho rằng, giai đoạn hiện nay cần tiếp tục nghiên cứu đầy đủ và hệ thống hơn nữa tổng kết các  kết quả đạt được và cả những bất cập trong việc vận dụng tư tưởng của Người nhằm phát huy hơn nữa giá trị Phật giáo. Từ đó sẽ góp phần quan trọng trong việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận cũng như cơ sở thực tiễn cho việc “tiếp tục hoàn thiện chính sách và pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng” ở Việt Nam. Từ đó, có những điều chỉnh chính sách, pháp luật phù hợp nhằm phát huy tối đa nguồn lực, giá trị Phật giáo nói riêng và tôn giáo nói chung tạo ra điều kiện thuận lợi trong việc xã hội hóa các lĩnh vực của đời sống, để Phật giáo Việt Nam thực sự “nhập thế” và có những đóng góp, chung tay cùng Nhà nước thực hiện những nhiệm vụ kiến thiết xã hội.

         4. Thay lời kết

        Có thể nói, Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng, một nhà văn hóa có những tư tưởng có tầm nhìn vượt trước về giá trị đạo đức, văn hóa trong các tôn giáo nói chung Phật giáo nói riêng mà Người còn là hiện thân sinh động cho tình yêu hòa bình, yêu chuộng tự do và tinh hoa của các giá trị đạo đức đó. Hồ Chí Minh đã gạn lọc, kế thừa, cách mạng hóa những hạt nhân hợp lý trong nhân sinh quan, thế giới quan của đạo Phật, nhất là giá trị tinh thần từ bi, hỉ xả, đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, chủ trương bình đẳng, yêu thương đồng loại, chống lại tham, sân, si, chống chủ nghĩa vị kỷ. Người nắm vững lý tưởng Phật giáo và đã phát huy nâng nó lên thành giá trị mới hun đúc cho truyền thống yêu nước, nhân ái, đoàn kết của dân tộc, động viên khích lệ đồng bào theo đạo Phật đồng hành cùng dân tộc cùng Đảng và Chính phủ đấu tranh giữ gìn chủ quyền và xây dựng đất nước. Hiện nay, sau 30 năm đất nước đổi mới những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về các giá trị của Phật giáo đã được khẳng định và đang đặt ra yêu cầu cấp bách mới  từ thực tiễn. Chính là giai đoạn hiện nay cần tiếp tục nghiên cứu  đầy đủ và hệ thống hơn nữa, tổng kết các  kết quả đạt được và cả những bất cập trong việc vận dụng tư tưởng của Người nhằm nâng cao hiệu quả, phát huy hơn nữa giá trị Phật giáo cho toàn Đảng, toàn dân. Từ đó sẽ góp phần quan trọng trong việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận cũng như cơ sở thực tiễn cho việc “tiếp tục hoàn thiện chính sách và pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng” ở Việt Nam. Từ đó, có những điều chỉnh chính sách, pháp luật phù hợp nhằm phát huy tối đa nguồn lực, giá trị Phật giáo nói riêng và tôn giáo nói chung ,tạo ra điều kiện thuận lợi trong việc xã hội hóa các lĩnh vực của đời sống, để Phật giáo Việt Nam thực sự phát huy tối đa nguồn lực mềm, “nhập thế” và có những đóng góp hiệu quả, chung tay cùng Nhà nước thực hiện những nhiệm vụ kiến thiết xã hội xứng đáng hơn nữa.
 
 
 
 
  
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
 
  1. Báo Cứu quốc số ra ngày 23/10/1946
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  3. Cù Huy Cận (1989), “Hồ Chí Minh – nhà văn hóa lớn, một người hiền của thời đại chúng ta”, Báo Nhân Dân ngày 1-9-1989.
  4. Võ Đình Cường (1987), Ánh đạo vàng, Phật học Viện Quốc tế xuất bản, USA.
  5. Lê Cường, Minh triết Hồ Chí Minh với Phật giáo, Tạp chí quê hương Online. 
  6. Hồ Chí Minh (1993), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  7. Hồ Chí Minh (1985), Truyện và ký, Nxb. Văn Học, Hà Nội.
  8. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  9. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  10.  Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  11.  Thích Diệu Niệm (1991), “Tư tưởng Hồ Chí Minh gần gũi với tư tưởng Phật giáo”, Nội san Nghiên cứu Phật giáo, số 1.
  12.  Thích Đức Nghiệp (1995), “Hồ Chủ tịch, một biểu trưng nhân bản Việt Nam”, trong Đạo Phật Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Hồ Chí Minh.
  13.  Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch. Tập IV, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1958.
  14.  Nguyễn Đức Quỳnh (2015), “Nét tinh hoa Phật giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 3.
  15. Đào Hoàng Nam (2000), “Sự gặp gỡ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Phật giáo về con người”, nguồn: http://www.phatgiaobaclieu.com/content/view/2168/51/.
  16. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.( 2016) Chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm nhìn lại. NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
  17. Những công trình nghiên cứu tư  tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng: Phạm Như Cương (1998) Bàn về thái độ và phương pháp khi nghiên cứu các tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin, và Hồ Chí Minh ở Việt nam. Nxb. KHXH. Hà Nội. Hồ Chí Minh về tôn giáo và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam. NXB CTQG Hà Nội.
 
 

Tác giả: PGS. TS Đỗ Thị Hòa Hới - Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN và ThS. Vũ Mạnh Hùng - Học viện An ninh nhân dân, Bộ Công an.

Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://nukeviet.vn là vi phạm bản quyền

Tổng số điểm của bài viết là: 11 trong 3 đánh giá

Xếp hạng: 3.7 - 3 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập9
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm8
  • Hôm nay379
  • Tháng hiện tại2,754
  • Tổng lượt truy cập1,170,845
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây