Thiền sư Pháp Loa cho rằng, giữa Pháp và Thân với Thực tướng, Hữu và Vô cho thấy sự hiện diện của thế giới này nhưng cũng chỉ là giả tạm, không phải là thực có, cũng như có là không, nhưng không phải là thực không. Sự đả phá quan niệm phủ nhận thế giới hiện tượng trong tư tưởng Thiền học của Pháp Loa cho thấy tính bản thể sắc không. Thế giới vạn vật là có nhưng không thực có, không thực tướng. Không nhưng không thực không. Trong bản thân cái tồn tại thực, thực có, thực không này cũng là không. Pháp là thực, mà cũng là phi thực, pháp là không pháp, pháp không pháp là pháp. Thoại đầu này cho thấy sự tiếp diễn tư tưởng trong bài truyền pháp của Như Lai cho đệ tử Ma Ha Ca Diếp1. Điều này chứng minh sự uyên thâm về trình độ Thiền học của Pháp Loa. Ngài cũng chỉ bày tất cả các pháp diệu dụng đều bắt nguồn từ tâm: “Cần phải tìm xét, đâu chẳng nghe nói: ‘Ba ngàn pháp môn đồng về tấc vuông, hà sa diệu dụng đều ở nguồn tâm. Ba ngàn pháp môn đồng về tấc vuông. Tấc vuông là chỉ chữ tâm. Hà sa diệu dụng đều ở nguồn tâm. Diệu dụng nhiều vô số như cát dưới sông, cũng từ nguồn tâm’”2. Con người chỉ có thể đạt đến tuệ thì mọi sự vật, hiện tượng, dù tương đối hay tuyệt đối, hữu hình cũng như vô hình. Trong mọi cõi, thậm chí nhất thiết chư tam muội môn đều đầy đủ nơi mình, đều từ mình ra (Trần trần sát sát, nhất thiết chư tam muội môn giai tòng tự kỳ lưu xuất)3.
Trúc Lâm đệ Nhị tổ đã tiến hành phân tích mối liên hệ giữa thiền định và tuệ. Tuệ mà không đạt được định thì gọi là tuệ cằn, định mà không đạt được tuệ thì cũng gọi là thiền si (cái tuệ khi bất đắc định giả, do danh cằn tuệ, định nhi bất đắc tuệ giả, diệc danh si thiền)4. Thiền định là phải dẫn đến tuệ mới là thiền định chân chính, còn ngược lại, thiền định không dẫn đến tuệ, thì chỉ là thiền si mê, u tối. Khi đã có tuệ rồi thì lại phải định ở trình độ cao hơn. Nếu từ tuệ không dẫn đến định cao hơn thì cái tuệ đạt được này trước sau gì cũng mai một, cằn cỗi5. Ngài cũng nhấn mạnh, yếu chỉ của Thiền định là thân tâm đều xả. Xả tâm là vừa dấy niệm liền buông. Còn xả thân là xả tất cả những nhu cầu mà bản thân đòi hỏi, xả những thụ hưởng không cho thân tâm đắm trước. Người tu thiền phải thấy thân tâm là tạm bợ, giả dối, vượt qua luyến ái để giữ gìn cho được sống lâu, dùng thân tâm trong những điều lợi ích cho đạo, lợi ích cho chúng sinh, đó mới được gọi là xả thân. Khi biết thân, tâm và cảnh không thật thì không còn chấp, không dính mắc, đó là thiền. Điều này đúng với câu của Điều Ngự Giác Hoàng: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”. Đối cảnh không tâm dính mắc là đã nhập thiền rồi, không cần hỏi thiền là gì nữa. Người tu thiền không được chấp dụng công, dụng công không có chỗ dụng gọi là Thiền Thượng thừa6.
Để có thể phá chấp tâm là gốc, Thiền sư Pháp Loa phân tích các yếu tố Giới và Thiền định, Tuệ và Thiền định. Ngài muốn cho tất cả người tu thiền phải đủ ba môn Giới, Định, Tuệ. Giới, Định, Tuệ viên mãn, chúng sinh mới có thể thành công trên đường tu giác ngộ và giải thoát. Pháp Loa nói rõ chỗ cốt yếu của Đại thừa (Đại thừa yếu thuyết): “Nếu người học cần yếu phải từ cạn đến sâu. Tức là gồm ba môn tuệ học, Văn Tư Tu, ba môn này thảy đều là Bát nhã (Trí tuệ). Trước cần nghe pháp sinh tri giải, gọi là văn tuệ, kế suy ngẫm pháp đã nghe, nhận định yếu lý rõ ràng, do
suy ngẫm nhập tâm mình, gọi là Tư Tuệ, sau đó, như chỗ đã nghe, đã suy ngẫm, căn cứ vào đó tu hành không cho sai chạy, gọi là Tu Tuệ. Hai Tuệ trước thuộc về hữu lậu, một tuệ sau thuộc về vô lậu. Trước thì cạn, sau thì sâu. Tuy cạn sâu có khác, đều gọi chung là Tuệ”1.
Thiền học của Pháp Loa là tư tưởng thoát tục, “tuân theo tổ sư hành đạo thiền cơ mọi việc như không có gì, mặc cho đi đi lại lại, hoặc đến phương bắc, hoặc tới phương nam, cứ tham thiền hỏi đạo, tùy duyên giác ngộ cho mình và cho người khác. Đó là Phật pháp vậy”2. Pháp Loa xác định Phật pháp trên lập trường, quan điểm của Giáo hội, người đứng đầu của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Trrong phạm vi Thiền học của mình, Ngài chỉ đề cập một cách vắn tắt, ngắn gọn những vấn đề thiết thực của việc tu đạo. Người muốn ngộ đạo, trước hết phải học đạo. Pháp Loa rất tích cực trong việc truyền thừa, diệu dụng và giáo hóa: “Thường ngày bàn thiền nói pháp mà không một pháp có thể được. Khi Ngài còn sống thì luôn bàn thiền nói pháp với đệ tử, với mọi người. Tuy bàn, tuy nói mà không một pháp có thể có được tức là không dính mắc một pháp nào. Nơi nơi tiếp độ chúng sinh mà không phải chúng sinh. Ngài luôn luôn đi hoằng hóa, giảng dạy các nơi để tiếp độ chúng sinh. Cuộc đời Thiền sư Pháp Loa cùng những tư tưởng của Ngài cho thấy đạo hạnh của một vị Bồ tát thượng thừa, đúng như trong Phát nguyện văn của Lục thời nghi có viết: “Nguyện học các hạnh nguyện của chư Phật Bồ tát. Nguyện với chúng sinh như Tán xác, hoặc kính mạn, hoặc thí dư, hoặc xâm đoạt, hoặc nhìn thấy, hoặc nghe tên đều độ cho hết, khiến cho tất thảy đăng lên cõi Bồ đề”3.
2.2. Tư tưởng Thiền học của Thiền sư Pháp Loa trong hệ thống Trúc Lâm Yên Tử