Đặt vấn đề
Đồng bằng Bắc bộ là cái nôi văn hóa của người Việt. Người Việt qua hàng ngàn năm cư trú đã tạo nên đời sống văn hóa tinh thần phong phú, độc đáo. Một trong những yếu tố góp phần tạo nên đời sống văn hóa tinh thần đó là GIÁ TRỊ trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng. Trong xã hội hiện đại, tưởng như đạo hiếu trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng không còn cơ sở tồn tại vì làng xã ở nông thôn đã có những biến đổi sâu sắc. Song điều đó đã không xảy ra và còn có chiều ngược lại, nó vẫn còn được bảo tồn khá nguyên vẹn. Phải chăng đó là GIÁ TRỊ vĩnh hằng trong đời sống tinh thần người Việt nơi đây?
Nội dung
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng là một loại hình tín ngưỡng khá phổ biến ở làng xã của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ. “Người Việt phổ biến nhất, nổi bật nhất là thờ thần ở làng, không làng nào là không có đình, đền, miếu thờ thần”. “Bởi thế, thần Thành hoàng là biểu tượng thiêng liêng nhất của cả làng, ở mỗi làng, khắp các làng xưa kia”. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng là sự kết hợp đỉnh cao của tín ngưỡng sùng bái con người và tín ngưỡng sùng bái thần linh.
Nhà - Họ - Làng - Nước là cơ cấu xã hội truyền thống của người Việt trong lịch sử. Làng là một đơn vị kinh tế - xã hội – văn hóa thống nhất chặt chẽ, liên kết giữa các gia đình, dòng họ lại với nhau trong một cộng đồng lãnh thổ chung. Là một cơ cấu tổ chức lâu đời và đặc thù của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. “Văn hoá Việt Nam xét về bản chất là một nền văn hoá xóm làng”. Làng Việt Nam từ lâu đã là nơi sinh ra và bảo lưu văn hoá làng – văn hoá dân tộc. Cho đến nay, văn hoá làng vẫn tồn tại với sự ngưng kết đậm đặc trong lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng, văn hoá dân gian… Làng Việt ở đồng bằng Bắc bộ là nơi lưu truyền các giá trị văn hóa làng, thu giữ vào nó nhiều loại hình tôn giáo và văn hóa truyền thống, trong đó có tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng. Làng Việt có cơ cấu, thiết chế rất chặt chẽ, tuy có quan hệ với nhà nước trung ương, nhưng lại mang tính độc lập tương đối. Tính độc lập tương đối này thể hiện sự khác nhau trong việc thờ Thành hoàng làng.Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đã bám rễ sâu bền, góp phần quan trọng vào việc cố kết cộng đồng, tạo nên bản sắc văn hóa truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ. Ở các làng đồng bằng Bắc bộ, Thành hoàng làng là vị thần bản mệnh, là chỗ dựa tâm limh cho cả cộng đồng làng.
Thành hoàng làng được thờ phụng thành kính và trân trọng ở các không gian thiêng trong các làng xã vùng đồng bằng Bắc bộ. Ở đồng bằng Bắc bộ, làng nào cũng thờ Thành hoàng làng. Thành hoàng có thể là nhiên thần, nhân thần, được phân thành thượng đảng thần, trung đẳng thần, hạ đẳng thần, chính thần, tà thần… nhưng đều có chung một điểm là có công trạng đối với làng. Dân làng thể hiện sự biết ơn bằng việc thờ phụng.
- Nghi lễ thực hành tín ngưỡng thờ Thành hoàng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ
Trong tiềm thức của người dân sống trong làng Việt cổ ở đồng bằng Bắc bộ, Thành hoàng là một biểu tượng thiêng liêng, là vị thần hộ mệnh của cả làng, có vai trò to lớn trong việc che chở , bảo hộ dân làng. Sự biết ơn và tôn kính Thành hoàng được thể hiện ở nơi thờ cúng, nghi thức thờ cúng. Việc thờ cúng vị thần chung, sự tôn kính của cả làng được thực hiện với nghi thức chặt chẽ trong lễ hội làng mà không gian tâm điểm là đình làng .
Đình là nơi thờ Thành hoàng làng. Đình vừa là không gian văn hóa, vừa là không gian tôn giáo, tín ngưỡng, đồng thời là đơn vị cơ quan hành chính của làng của người việt ở đồng bằng Bmắc bộ. Đình được coi như ngôi nhà chung của làng, nó vừa gần gũi, vừa thân thương lại vừa thiêng liêng, huyền bí. Đình làng là không gian đặc biệt của người Việt “được mọi người nhìn nhận với tính chất đặc biệt đa dụng cả về tôn giáo lẫn xã hội, hành pháp, tư pháp, lập pháp, du hý, kinh tế, quan hôn, tang tế... chỉ Việt Nam mới có". Việc thờ cúng Thành hoàng được diễn ra thường xuyên thông qua việc thắp đèn, hương hằng ngày, ngoài ra việc cúng lễ được thực hiện vào các ngày Sóc, Vọng hằng tháng, những ngày tiết nạp bốn mùa, lễ giao thừa, Tết Nguyên đán, hay những ngày trong làng có ma chay, cưới hỏi, người đỗ đạt, xây dựng công trình chung…dân làng vẫn ra đình cúng lễ để báo cáo, tạ ơn hay kêu cầu sự chở che của Thành hoàng cho cuộc sống của cá nhân, gia đình và cả làng được bình yên và phồn thịnh. Đặc biệt là ngày thần húy và thần đản, tức là ngày mất và ngày sinh của Thành hoàng làng, hay ngày nhập tịch của làng, những ngày này thường được người dân trong làng tổ chức lễ tế rất lớn. Tế thần là sự giao cảm giữa người và thần là hoạt động thiêng liêng nhất mở đầu lễ hội, là nghi thức rước kiệu, dâng lễ vật, đọc chúc văn tỏ kính ý biết ơn thần, cầu xin thần ban những điều tốt lành cho dân làng như: phong đăng hòa cốc, an khang vật thịnh…
Ý thức về cộng đồng của dân làng được củng cố sâu sắc thêm thông qua các lễ hội làng. Lễ hội làng được coi là ngày giỗ của cả làng, hay còn gọi là ngày Thần kỵ. Nghi lễ tế Thành hoàng làng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ được quy định rất chặt chẽ ở tất cả các khâu, từ việc chọn người chủ tế, bồi tế, các người xướng, cũng như y phục, các động tác cũng được quy định rõ ràng trong điển lễ của làng và người thực hiện lễ tế phải thực hiện các động tác đúng như quy định. Làng cũng quy định trong cuộc tế, bắt đầu từ tiết mục "Khởi chinh cổ" cho đến "Tế tất" có bao nhiêu động tác, vị đông xướng xướng câu gì, vị chủ tế xướng câu gì, mỗi chức danh trong cuộc tế đứng ở đâu... Tất cả các điều này đều được ghi chép tỷ mỉ trong điển lễ của làng. Địa điểm diễn ra các cuộc rước, tế và các trò diễn là đình và đền (hoặc miếu) của làng. Đồng thời với tế và lễ, người dân còn tổ chức rước Thành hoàng, với ý muốn đưa thần đi thăm thú làng quê, khoe với thần những công việc tốt đã làm được. Trong buổi rước người dân còn diễn lại những công trạng của Thành hoành làng đã làm đối với làng. Đó chính là thế hiện sự biết ơn sâu sắc, lòng tôn kính và sự nhớ nhung khôn nguôi với người có công với làng, với nước - một nét đẹp trong đạo Hiếu của người Việt ở các làng đồng bằng Bắc bộ.
Trong lễ tế Thành hoàng làng, phần lễ và phần hội là một tổng thể. Lễ là phần tôn giáo, biểu hiện những giá trị đạo đức sâu lắng nhất của người dân mỗi làng quê vùng đồng bằng Bắc bộ. Phần lễ gồm một hệ thống hành vi biểu hiện sự tôn kính, biết ơn, sự mong cầu của người dân đối với Thành hoàng làng. Điều đó được thể hiện trong văn tế. Văn tế nhắc đến công trạng của các vị thần được thờ cúng tại đình, sắc phong của các vị Thành hoàng. Điều này vừa bày tỏ sự cung kính, nhớ ơn của người dân địa phương đối với các vị thần linh, vừa khơi dậy truyền thống lịch sử, giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn cho các lớp con cháu. Văn tế của người Việt được dùng để giao cảm với thần linh, chủ yếu cầu xin thần linh ban phúc lành cho dân làng. Trong lễ hội cổ truyền của người Việt, văn tế được viết bằng chữ Hán. Hiện nay, văn tế của nhiều làng người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ viết bằng chữ Quốc ngữ. Sau nghi lễ rước và tế Thành hoàng là phần hội với các cuộc thi, trò diễn, trò chơi dân gian, hội thi nấu ăn. Các cuộc thi, trò chơi dân gian trong lễ hội bao giờ cũng có nội dung gắn với lịch sử của làng, mô tả lại sự tích hay chiến tích của Thành hoàng, ca ngợi vẻ đẹp của làng…
Lễ hội làng là nơi giải toả những ước muốn tâm linh của người nông dân, là nơi giúp con người lập lại một sự cân bằng trong quan hệ nhiều chiều: người và người, người và thần linh, người và vạn vật. Nói cách khác, đó là những triết lý mang đậm mầu sắc Á Đông của người dân Việt về trời, đất, và người, với ước mong thiên thời, địa lợi, nhân hoà.Thông qua lễ hội làng, mỗi người dân dường như cảm thấy mình được bình đẳng trước trời đất, thần thánh để tỏ lòng biết ơn, cầu mong sự che chở đối với bản thân, gia đình, họ tộc và làng xã. Sự phân biệt về địa vị và thân phận của mỗi người đều bị phá bỏ trong mối quan hệ với thế giới thần linh, nó đã góp phần giúp người dân tăng thêm niềm tin, quên đi những lo toan, nhọc nhằn của đời sống hiện thực, giúp họ lấy lại được cân bằng về tâm lý để sống vui hơn, tốt hơn ngay khi lễ hội. Khuôn quanh những không gian thiêng liêng ấy, hàng năm lễ thần và hội làng diễn ra là dịp niềm tin thiêng liêng được củng cố. Thần Thành hoàng thiêng liêng nhắc nhở con người nhớ về cội nguồn, hiếu đạo, nhắc nhở xoá bỏ những gì khúc mắc bất hoà, làm cho người ta gắn bó với nhau hơn. Họ sống với nhau bằng tình làng nghĩa xóm: “tối lửa tắtđèn có nhau”, “bán anh em xa mua láng giềng gần”, “một miếng khi đói bằng một gói khi no”... Đó là những sợi dây tình cảm vô cùng thiêng liêng cố kết, củng cố khối cộng đồng làng xã.
- Giá trị của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ
Thứ nhất, ý thức về lòng biết ơn những người có công với làng xã
Thành hoàng là người có công với dân làng như: lập làng, lập nghề, dạy học, đánh giặc, cứu người... Cũng giống như thờ cúng tổ tiên, thờ cúng Thành hoàng của người Việt vừa là tín ngưỡng, vừa là đạo lý sống của hậu thế đối với bậc tiền bối có công với làng xóm, đất nước. Nếu thờ cúng tổ tiên là đạo lý thể hiện ý thức hướng về nguồn cội của gia đình, dòng họ thì thờ cúng Thành hoàng làng cũng là sự tôn vinh các bậc tiền bối ở cấp độ làng xã. Làng nào cũng thờ Thành hoàng, mỗi một vị Thành hoàng có nguồn gốc, công trạng khác nhau “trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Vì thế, làng không thể thiếu một biểu tượng thiêng liêng, vị thần hộ mệnh để phát tín hiệu tập hợp, củng cố, bảo vệ phát triển cộng đồng. Việc thờ cúng đó được xuất phát từ sự biết ơn, sự ghi nhớ công ơn của dân làng với người có công với làng.
Người có công đánh giăc, bảo vệ làng, nước được triều đình phong kiến sắc phong hàm Thượng đẳng thần thì được nhiều làng thờ phụng như: Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Hoàn, Dương Đình Nghệ, Lê Văn Thịnh, Tô Hiến Thành, Lý Thường Kiệt… Vua Hùng có công lập nước Văn Lang nên được coi là Thành hoàng chung, được cả nước tôn thờ.
Tuy nhiên, có lẽ nét khác biệt giữa các làng chính là thờ các vị thần riêng của làng mình, những vị thần đó vừa gần gũi lại vừa thiêng liêng với từng làng. Người nông dân làng Việt ở Bắc bộ chủ yếu sống bằng sản xuất nông nghiệp, gắn bó, phụ thuộc vào thiên nhiên. Xưa kia, con người thụ động, phụ thuộc phần lớn vào thiên nhiên. Trước sức mạnh của thiên nhiên, con người trở nên nhỏ bé, tâm lý bất an khi gặp thiên tai hay mất mùa. Họ cần có vị thần che chở, cứu giúp.Từ đó, “người dân trong làng cùng nhau tự phong, tự thờ vị Thành hoàng riêng của mình như vị thần bản mệnh, chủ yếu đảm bảo mưa thuận gió hòa, đem lại sự bình yên cho cộng đồng”.
Đối với người dân vùng đồng bằng Bắc bộ xưa kia sống ở làng, kinh tế nông nghiệp không chỉ trồng trọt và chăn nuôi, khi những làng nghề thủ công xuất hiện, đời sống của người dân khá giả hơn, họ mang ơn những người đã có công tìm và truyền nghề cho họ. Vì thế người dân thờ Thành hoàng làng còn là những vị Tổ nghề. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng là Tổ nghề biểu hiện khá rõ và còn lưu truyền đến nay như làng gốm Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội tôn vị tổ nghề gốm Hứa Vĩnh Kiều làm Thành hoàng làng để ghi nhớ công ơn tuyền dạy nghề gốm cho nhân dân và phát triển thành làng gốm nổi tiếng như hiện nay. Trong đình làng, ngoài vị tổ chung của cả làng còn có bài vị của chin cụ Tổ của chin họ trong làng cũng được phối thờ. Hay bà chúa nuôi tằm, dệt vải Quỳnh Hoa thời vua Lê Thánh Tông do có tài năng dạy cung nữ các nghề chăn tằm dệt vải được dân tôn là Thành hoàng thôn Nghi Tàm.Trong các đình làng trên khắp mọi miền đất nước có rất nhiều nơi thờ Thành hoàng làng là người có công truyền nghề cho nhân dân như: ông tổ nghề đúc đồng ở làng Đại Bái, huyện Gia Bình, Bắc Ninh - Nguyễn Công Truyền; đình Lò Rèn ở số 1 Lò Rèn thờ Tổ nghề rèn; đình Bích Lưu ở 18 Thợ Nhuộm thờ Tổ nghề thợ nhuộm; đình làng Đồng Xâm, xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình thờ Nguyễn Kim Lâu - vị Tổ nghề chạm bạc của làng…
Thứ hai, ý thức giữ gìn luật lệ, lề lối gia phong của làng xã
Mỗi làng xã cổ truyền Việt Nam đều có phong tục tập quán riêng biệt, định hình thành tục lệ làng xã. Trong tâm thức người Việt ở đồng bằng Bắc bộ Thành hoàng là vị thần tối linh, có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khoẻ mạnh. Các thế hệ dân cứ tiếp tục sinh sôi nhưng thành hoàng thì còn mãi, trở thành một chứng tích không thể phủ nhận được của một làng qua những cơn chìm nổi. Thành hoàng chính là vị chỉ huy tối linh của làng xã không chỉ về mặt tinh thần mà còn một phần về mặt đời sống sinh hoạt vật chất của dân làng. Cho nên,“sự thờ phụng thành hoàng xét cho cùng là sự thờ phụng luật lệ làng xã, lề thói gia phong của làng”.
Thành hoàng có sức toả sáng vô hình như một quyền uy siêu việt, khiến cho làng quê trở thành một hệ thống chặt chẽ. Chính sự thờ phụng này là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn kết, nếp sống cộng cảm hoà đồng, đất lề quê thói được bảo tồn. Vì lẽ đó, mỗi làng khi muốn mở hội hoặc tổ chức việc gì đều phải có lễ cúng thành hoàng để xin phép trước. “Dường như sự ngưỡng mộ thành hoàng của người dân không kém gì sự ngưỡng mộ đối với tổ tiên của họ, ở cấp độ cao hơn Tổ nhà, Tổ họ vì đây là Tổ làng”
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng thường được thể hiện trong các lễ hội xuân hoặc Tết cổ truyền, lễ hội cho phép dân cư làng khác đến tham dự, nhân đó mở rộng quan hệ cho làng - vốn đóng kín. Người dân vùng đồng bằng Bắc bộ canh tác nông nghiệp tuần hoàn theo bốn mùa, những tập tục lâu đời tạo ra các lề thói và giá trị tinh thần, có cái hay, cái dở, có cái nhân văn, song cũng có cái bảo thủ, hủ tục cố hữu... điều đó tạo nên những nét riêng biệt của mỗi làng. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng qua đó nhắc nhở con người phải yêu quý cộng đồng dân tộc, đặc biệt là cộng đồng làng xã, kéo người dân quay lại mối quan hệ hàng xóm láng giềng theo kiểu “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Trong mỗi dịp lễ hội Thành hoàng hương ước của làng được nhắc nhở, lưu giữ, làng xã trở thành một cộng đồng thống nhất. Có thể nói, thờ Thành hoàng làng thực chất là nét văn hoá đặc trưng trong sinh hoạt văn hoá làng, sự giao lưu văn hoá giữa các làng xóm với nhau; là nơi để lưu giữ những phong tục, luật lệ của mỗi làng.. đó là sự kết tinh ý thức hệ tôn giáo quanh một hình thái thờ phụng tập thể - thờ Thành hoàng làng trong tâm thức dân gian, tâm thức truyền thống của người dân.
Thứ ba, ý thức đoàn kết cộng đồng làng xã
Tín ngưỡng Thành hoàng đóng vai trò liên kết cộng đồng làng xã, là nơi quy tụ tâm linh cho cư dân. Thành hoàng chứng kiến đời sống của dân làng, ban phúc độ trì cho những người trung hiếu, hiền lành, giáng họa trừng phạt những kẻ độc ác vô luân. Có tai biến, người ta thường đến lễ bái cầu xin thần che trở. Có việc oan ức, người ta thường lễ bái cầu xin thần chứng giám chuyển giữ hóa lành, giải oan cho người đó. Mọi người trong cộng đồng luôn tuân thủ theo luật lệ, đạo đức vì họ luôn tâm niệm rằng thần luôn giám sát những hoạt động của từng thành viên trong cộng đồng. Nhà nước phong kiến Việt Nam chọn lọc và phong sắc cho Thành hoàng làng nhằm mục đích đoàn kết và động viên toàn bộ sức mạnh của cộng đồng làng, xã và dân tộc thành một khối, đồng thời thực hiện việc quản lý xã hội đến cơ sở xã hội. Không gian văn hóa chung là đình và linh hồn chung của làng là Thành hoàng làng. Ngôi đình xuất hiện lúc ban đầu với chức năng làm trụ sở hành chính – công sở của nhà nước phong kiến ở làng, xã dần dần trở thành nơi thờ cúng Thành hoàng và hội họp của chức dịch, dân làng và thông qua các lễ tế diễn ra tại đình đã thể hiện rõ sự biết ơn, lòng thành kính đối với đấng thiêng liêng là Thành hoàng.Tín ngưỡng thờ Thành hoàng chính là nơi “nương náu” của văn hóa dân tộc. Quan niệm về quy luật thiêng liêng trời đất, thời gian và lối sống của người nông dân tác động lên hình dáng làng mạc, ngôi đình và các nghi thức tế lễ của tín ngưỡng thờ Thành hoàng. Trong vòng quay của mùa màng, năm tháng được sinh sôi và cuộc đời người nảy nở. Từ đây, mỗi người cảm thấy rõ nhu cầu ngưỡng vọng tâm linh, nhu cầu không thể sống một mình mà cần có thêm những người khác nữa. Phải sống giữa cộng đồng, gắn kết với cộng đồng làng hay theo lời người xưa, đó chính là cái lẽ “nhân quần”.Nếu như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong gia đình thì sự thờ cúng thần Thành hoàng là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong cộng đồng làng, xã. Trên cơ sở những nguyện vọng, mong ước của các thành viên trong làng hội tụ ở thần Thành hoàng.
Như vậy, đạo Hiếu của người Việt không chỉ là một trạng thái tâm lý, mà nó trở thành một nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước. Người dân Việt Nam trải qua suốt chiều dài lịch dựng nước và giữ nước, phải đoàn kết nhau lại. Ý thức cố kết cộng đồng được hình thành và phát triển để chống lại thiên tai và giặc giã. Sau mỗi khó khăn trong cuộc sống mưu sinh và tâm thức khát khao hòa bình, cuộc sống bình an, tâm lý được che chở, muốn được bày tỏ sự biết ơn với đấng thiêng đã ban phước lành cho mình đã ra đời một cách tự nhiên, bình dị. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ biểu hiện đạo Hiếu, sự biết ơn và mong muốn được đền đáp công ơn của thế hệ sau với thế hệ trước, sự đền đáp đó được lưu truyền từ đời này sang đời khác, củng cố và duy trì bền vững. Đạo Hiếu có vai trò trung gian, điều chỉnh sự tồn tại, hoạt động trong sinh hoạt tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng. Đạo Hiếu được kết tinh từ văn hóa, trở thành triết lý sống của người Việt, dạy con người sống hướng thiện, có cái tâm trong sáng, biết đối nhân xử thế, thờ phụng ông bà tổ tiên và những người có công với quốc gia dân tộc. Đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng như một lời nhắc nhở về những giá trị từ quá khứ, là niềm tự hào của dân tộc hướng đến những giá trị nhân văn cao cả. Trên con đường phát triển đất nước trong điều kiện toàn cầu hóa, cuộc sống bề bộn với bao niềm vui, nỗi buồn, bao cái được, cái mất đan xen ngổn ngang. Đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đang tồn tại và phát triển cùng với lịch sử dân tộc, thấm dần vào các thế hệ người Việt Nam. Trải qua thời gian, triết lý về lòng biết ơn và đền ơn của đạo Hiếu không thay đổi, sẽ mãi là giá trị vĩnh hằng, khẳng định sự trường tồn của dân tộc, tạo ra sức mạnh văn hóa trong hội nhập và phát triển.
Thực trạng tín ngưỡng của người Việt hiện nay còn thể hiện một xu hướng khác, đó là thiên về hình thức, thực dụng. Nhiều kẻ lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước đã lén lút hoặc công khai đứng ra kinh doanh trục lợi, hành nghề mê tín dị đoan, “buôn thần bán thánh”. Nhiều địa phương, làng xã, biến lễ hội Thành hoàng thành nơi kinh doanh, thu tiền. Hiện nay, các lễ hội truyền thống liên quan tới tín ngưỡng Thờ thành hoàng ở Bắc bộ được thực hành rộng khắp. Tuy nhiên, nghi lễ trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng còn quá câu nệ, bảo thủ trong việc tuân thủ các quy định trong lễ tục thờ cúng Thành hoàng, bị kích thích bởi nền kinh tế thị trường, ở nhiều nơi, nhiều lúc, đồng tiền đã trở thành bái vật trong nghi thức thờ cúng. Mâm cao, cỗ đầy, lễ cúng đắt tiền, nghi lễ phô trương lấn át niềm tin trong sáng gây tốn kém lãng phí tiền của. Do không được sự tổ chức, hướng dẫn đầy đủ từ các cấp chính quyền, các trò chơi truyền thống trong các lễ hội như: đánh đu, vật cổ truyền, thi nấu cơm, thi đọc mục lục... cùng với các hoạt động văn nghệ như hát chèo, hát tuồng, ca trù... đang ngày bị mai một dần. Người dân trẩy hội với lòng tôn kính tổ tiên, các vị tiền bối có công với làng xã, đất nước, với niềm tin được giải toả sau một năm lao động vất vả, miệt mài, với tinh thần tự do, nhân ái để được chan hoà trong cuộc sống cộng đồng. Thay vào đó, nhiều hiện tượng tiêu cực của cơ chế thị trường đã và đang xuất hiện như đánh bạc, xổ số, lô tô... việc này đồng nghĩa với việc các giá trị văn hoá truyền thống đang bị mất mát, không được bảo toàn và chuyển giao cho các thế hệ nối tiếp. Hơn nữa, ở nhiều lễ hội thờ cúng Thành hoàng còn nhiều hủ tục, mê tín được khơi dậy. Một số đối tượng đã lợi dụng sự mê tín của một số người để lừa đảo kiếm tiền như xem bói, cúng tế giải hạn, cầu xin vận may, trừ tà... đặc biệt là vào các dịp lễ hội đầu năm. Ngoài ra, cùng với các trò chơi mang đậm nét văn hóa dân gian, một số kẻ xấu còn lợi dụng dịp lễ hội để hoạt động cờ bạc, lừa bịp kiếm tiền gây mất trật tự an ninh. Các dịp lễ hội thường kéo dài gây ảnh hưởng tới hoạt động lao động sản xuất và học tập của người dân. Việc trùng tu, xây dựng lại đình, nghè, miếu thờ Thành hoàng làng ở một số làng ở đồng bằng Bắc bộ nguy nga đồ sộ gây tốn kém lãng phí tiền bạc của Nhà nước và nhân dân.
Trong bối cảnh hiện nay, với tinh thần của Đại hội lần thứ XII của Đảng: “phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của dân tộc” chúng ta, một mặt có trách nhiệm gìn giữ, phát huy giá trị tốt đẹp, mặt khác cũng hết sức chú ý hạn chế và có những biện pháp khoa học, đồng bộ của cơ quan văn hóa, của cả hệ thống chính trị và của mỗi người dân trong khắc phục những biểu hiện tiêu cực khi thực hành đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ở khắp các làng quê Bắc bộ./.
Đại Việt sử ký toàn thư (1968), tập 4, bản dịch Viện sử học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.86
Đại Việt sử ký toàn thư (1968), tập 4, bản dịch Viện sử học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.97
Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr18
Lê văn siêu, Việt Nam văn minh sử, Nxb Văn học, Hà Nội, 2006, tr. 239
Trần Đăng Sinh, Chủ biên, (2017), Đạo lý uống nước nhớ nguồn cơ sở triết học và giá trị trong lịch sử dân tộc, Nxb Giáo dục Hà Nội ,tr. 60].
Nguyễn Thị Thọ (Chủ biên) (2017), Bản thể luận xã hội về đạo Hiếu ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.95.
Nguyễn Thị Thọ (Chủ biên) (2017), Bản thể luận xã hội về đạo Hiếu ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.95
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.303
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://nukeviet.vn là vi phạm bản quyền