Trong các hình thái tín ngưỡng dân gian, thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng truyền thống mang tính phổ biến của người Việt Nam. Có thể nói, thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Việt Nam có nguồn gốc từ xa xưa và mang đạo lý nhân ái, “uống nước nhớ nguồn”. Trong tiến trình lịch sử, nó đã được hỗn dung các yếu tố, các hệ tư tưởng tôn giáo khác như Nho, Phật, Đạo giáo nhằm bổ sung ngày một hoàn chỉnh. Từ sau thế kỷ XV được nhà nước phong kiến Lê Sơ thể chế hóa thành một thứ “đạo” dân tộc. Mà như Đặng Nghiêm Vạn gọi là: Đạo tổ tiên - Đạo Ông Bà.
Trong bài báo này chúng tôi tìm hiểu về tín ngưỡng dân gian lâu đời – thờ cúng tổ tiên. Chúng tôi tìm hiểu về các khái niệm: nguồn gốc, bản chất của nó, về các nghi lễ, nghi thức của tín ngưỡng này, về thực trạng và vai trò tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong đời sống người Việt hiện nay.
Theo GS. Đặng Nghiêm Vạn, thuật ngữ tín ngưỡng có thể hiểu theo hai nghĩa. Khi nói đến tự do tín ngưỡng, người ta có thể hiểu đó là niềm tin nói chung (belief, believe, croyance) hay niềm tin tôn giáo (belief, believe, croyance riligieuse). Nếu hiểu tín ngưỡng là niềm tin thì có một phần ở ngoài tôn giáo, nếu hiểu chỉ là niềm tin tôn giáo (belief, believer theo nghĩa hẹp croyance riligieuse) thì tín ngưỡng chỉ là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành cốt lõi của tôn giáo.
Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh giải nghĩa: Tín ngưỡng là lòng ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa nào đó.
Hiện nay, Nhà nước ta cũng phân biệt rõ ràng giữa tín ngưỡng và tôn giáo. Điều này thể hiện rõ trong Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2018: Hoạt động tín ngưỡng là các hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.
- 1.2. Về khái niệm “tổ tiên”:
Tổ tiên là khái niệm dùng để chỉ những người có cùng huyết thống nhưng đã mất như cụ kỵ, ông bà, cha mẹ, … những người có công sinh thành và nuôi dưỡng, những người anh, em đã mất có ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của thế hệ những người đang sống.
Trần Đăng Sinh dựa theo quan điểm TôCaRép cho rằng, quan niệm Tổ tiên trong xã hội nguyên thủy có nguồn gốc là tổ tiên Tô-tem giáo của thị tộc, bộ lạc. Tổ tiên Tô-tem giáo thời kỳ thị tộc mẫu hệ là những vật trong tự nhiên, có những mối quan hệ mật thiết với con người và khi được thần thánh, thiêng liêng hóa thì được gọi là Tô-tem của thị tộc, bộ lạc. Thời kỳ thị tộc phụ hệ, tổ tiên là những người đứng đầu thì tộc, bộ lạc như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự,… đầy quyền uy, có vai trò rất quan trọng.
Tổ tiên trong xã hội có giai cấp được thể hiện nội hàm rộng, đầy đủ hơn. Họ thường là những người giữ địa vị chủ gia đình, gia tộc đã mất, có quyền thừa kế và di chúc tài sản được luật pháp và xã hội thừa nhận cho người thừa kế, thừa tự...
Trong quá trình phát triển của lịch sử ở các nền văn hóa, như ở Việt Nam, khái niệm “tổ tiên” cũng có sự biến đổi, phát triển. Nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi huyết thống gia đình, họ tộc,… mà nó đã mở ra phạm vi cộng đồng, xã hội toàn thể quốc gia dân tộc. Sự hình thành và phát triển của các quốc gia, dân tộc thường gắn liền với tên tuổi của những người có công tạo dựng, giữ gìn cuộc sống cộng đồng. Họ là những anh hùng, danh nhân mà khi sống được tôn sùng, kính mến, khi mất được tưởng nhớ, thờ phụng trong các không gian tôn giáo. Có khi tại các cơ sở thừa tự khác ở Việt Nam, họ là những tổ sư, tổ nghề, thành hoàng làng, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, …
- 1.3. Về khái niệm “thờ cúng”:
Thờ cúng là yếu tố mang tính thực hành lễ nghi, là sự thực hành một loạt động tác (khấn, vái, quỳ, lạy…) của người gia trưởng tộc trưởng là các hậu sinh, hậu thế. Đó là chuỗi hoạt động dưới dạng hành lễ và được các gia tộc, cộng đồng, quốc gia quy định bởi quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi loại nhóm chủ thể cộng đồng, dân tộc trong các thời kỳ.
Thờ và cúng là hai yếu tố có tác động qua lại và tạo nên chỉnh thể riêng biệt - đó là hoạt động sự thờ phụng “tổ tiên”. Sự “thờ”, “tôn thờ” là nội dung, còn hoạt động “cúng” là hình thức, hành vi biểu đạt của nội dung thờ cúng. Ý thức tôn thờ, thành kính, biết ơn, tưởng nhớ, hi vọng sự trợ giúp của lực lượng thiêng liêng là linh hồn của tổ tiên. Đó là nội dung cốt lõi, là cái chủ yếu, khiến sự thờ phụng tổ tiên được bộc lộ, chúng tạo thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nếu không có “thờ”, mà chỉ có “cúng” thì sự thờ phụng tổ tiên chưa hoàn thành, không còn “hồn thiêng”, không có sức hấp dẫn nội tại, dễ thành sự phô trương “nhạt nhẽo”, và do vậy, cần có 2 phương diện đó mà nếu thiếu một vế không thể là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Sự “cúng” tuy chỉ là hình thức, nhưng qua đó bộc lộ sự tôn vinh vẻ linh thiêng, huyền bí, mờ ảo và tạo nên sức hấp dẫn của cái linh thiêng là linh hồn tổ tiên. Nó chính là chất kết dính, biểu đạt nên màu sắc huyền bí và thỏa mãn niềm tin của chủ thể thờ cúng vào cái linh thiêng là sự hiển linh của linh hồn tổ tiên.
Từ rất sớm người Việt đã thực hành phổ biến, ổn định. Nhưng phải đến gần đây với sự hình thành và phát triển ngành Tôn giáo học thì khái niệm này mới được sử dụng rộng rãi, khẳng định phổ biến trong đời sống tâm linh.
Khái niệm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là quan niệm chuyển tải trong sự thờ cúng của hậu thế, hướng tới sự tồn tại của linh hồn tổ tiên và lập mối liên hệ giữa người đã chết và người đang sống (cùng chung huyết thống). Bằng cúng tế để lập con đường “hồn” thiêng tổ tiên về chứng kiến, theo dõi hành vi sự thờ cúng của con cháu. Từ đó có thể quở trách hoặc phù hộ cuộc sống của họ. Trong thực hành tín ngưỡng này nổi bật nhất vai trò của nó là chuyển tải đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Đó là nội dung nổi trội, các nghi thức, nghi lễ là hình thức bên ngoài. Hiện nay đây là loại hình tín ngưỡng được thực hành phổ biến ở các cấp độ: gia đình, dòng tộc, quốc gia.
Thờ cúng tổ tiên còn là hình thái tín ngưỡng có ý nghĩa lớn về mặt tổ chức cộng đồng trong xã hội truyền thống, đến cấp cao nhất là cộng đồng quốc gia dân tộc. Sống trong xã hội, xét theo cả trục dọc và trục ngang, con người không thể sống biệt lập, đơn độc. Theo trục dọc lịch đại phụ hệ, thờ cúng tổ tiên là sự liên hệ nối tiếp liên tục các thế hệ: ông bà - cha mẹ - bản thân. Mỗi con người phải có trách nhiệm thờ phụng bốn đời trước: cao, tằng, tổ, khảo (kỵ, cụ, ông, bố) và họ cũng tin rằng tới lượt họ sẽ được con cháu bốn đời kế tiếp cúng giỗ. Theo trục ngang đồng đại tín ngưỡng, thờ cúng tổ tiên đã tạo ra sự liên kết gắn bó con người trong mối liên kết gia đình, dòng họ: họ cha, họ mẹ, họ vợ (hoặc chồng). Với tư cách cộng đồng dòng tộc một tập thể - gồm cả người đang sống và người đã chết gắn bó với nhau về huyết thống vô hình và hữu hình và tôn thờ chung một thủy tổ. Các mối liên kết đó: gia đình, dòng họ, quốc gia, dân tộc có sức mạnh đảm bảo giá trị vật chất và tinh thần cho mỗi thành viên của nó trong mạng lưới các liên kết phức hợp của làng xã, quốc gia.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục văn hóa truyền thống. Nó có vai trò vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam hiện nay. Trong bối cảnh mở cửa hội nhập, việc bảo lưu và phát huy nó đã và đang là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Nội dung “niềm tin” trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất giản dị: Tin rằng tổ tiên mình vẫn đang hiện diện vô hình, gần gũi, là lực lượng thiêng liêng, hồn thiêng của họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng đồng hiện vẫn sống cạnh con cháu, linh hồn thiêng của họ phù hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; đồng thời chia sẻ vui mừng khi con cháu gặp may mắn, bảo trợ khuyến khích cho hậu thế, con cháu khi gặp điều lành và cũng “quở trách” con cháu khi làm những điều sai trái, tội lỗi...
Nhưng trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên điều chủ đạo có vai trò hướng dẫn, điều chỉnh hậu thế con cháu ở các hành vi, lối sống hiện tại. Nó có giá trị rất lớn trong đương đại Việt Nam. Nếu như tôn giáo thường coi nhẹ hiện thế, đề cao tuyệt đối hóa đời sống tinh thần, hướng con người về thế giới siêu thoát, đề cao thế giới sau khi chết thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tuy có hướng con người về với quá khứ, song lại rất coi trọng hiện tại và tương lai.
Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng phổ biến ở Việt Nam và một số quốc gia Đông Á. Đây là một điểm khác biệt căn bản về văn hóa giữa Việt Nam so với các quốc gia phương Tây, nơi mà đời sống tinh thần của con người chủ yếu là chịu sự chi phối của Ki tô giáo hay các vùng Cận Đông, nơi tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất và một số quốc gia khác mà Hồi giáo là quốc giáo. Nguồn gốc, bản chất của tín ngưỡng này đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam nghiên cứu từ lâu với những kiến giải sâu sắc bằng nhiều phương pháp. Chúng tôi chỉ tóm tắt một số lập ý then chốt sau đây:
- 2.1. Nguồn gốc nảy sinh và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong hiện thực:
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng truyền thống, lâu đời của dân tộc Việt Nam. Vậy, nó xuất hiện từ khi nào? Cho đến nay, có khá nhiều giả thuyết đưa ra câu trả lời cho câu hỏi này. Trong số đó, phổ biến nhất có giả thuyết cho rằng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có từ thời sơ sử được củng cố trong thời kì Bắc thuộc đồng thời được củng cố với những ảnh hưởng của văn hóa Hán Nho. Tuy nhiên, còn một số vấn đề gây tranh cãi nảy ra: Liệu thời điểm ra đời có thể sớm hơn không? Mối quan hệ giữa các yếu tố bản địa và các yếu tố du nhập trong việc hình thành tín ngưỡng này như thế nào? … Và từ đó, một câu hỏi lớn được đưa ra: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có các yếu tố cấu thành nào? Các yếu tố đó lại có nguyên lai từ đâu?
Có nhiều phương án để trả lời cho câu hỏi này. Ở đây chúng tôi dựa vào quan điểm tôn giáo học Mác xít, đồng thời tiếp cận các quan điểm tôn giáo học của Mac Weber, Tylo về những đáp án của những câu hỏi về nguồn gốc của các tôn giáo, tín ngưỡng. Trước hết chúng ta phải truy nguyên tìm hiểu về ba nguồn gốc lớn, ba nguồn gốc chủ yếu nảy sinh là: Nguồn gốc nhận thức, nguồn gốc xã hội và nguồn gốc tâm lý.
-
- 2.2. Nguồn gốc nhận thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt:
Bộ phận cốt tủy của các hiện tượng tín ngưỡng đó là niềm tin vào lực lượng thiêng liêng. Đó là cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc hình thành bất cứ tôn giáo, tín ngưỡng nào. Niềm tin tôn giáo cũng là nhận thức về chính hiện thực phổ quát lặp đi lặp lại của cư dân xứ nông nghiệp đã đưa tới cơ sở nhận thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Chúng là quan niệm tâm linh của người Việt về thế giới vạn vật đều có thể hiện hai phương diện: sự hiện hữu thực tại và “mang vác” linh hồn – tin vạn vật hữu linh. Cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt xuất phát từ nhận thức vạn vật có linh thiêng đó là nguồn sống thiêng liêng bất diệt, vô hình, “vạn vật hữu linh” - mọi vật đều có linh hồn. Quan niệm này được mở rộng bắt đầu từ giới tự nhiên xung quanh mình và vận dụng vào quan niệm con người cũng có linh hồn kết hợp với thể xác. Và khi con người chết đi, linh hồn vẫn tồn tại độc lập. Vì thế, loại thần cổ sơ nhất được người ta sùng là các nhiên thần, đặc biệt là thần cây, thần núi, thần sông …
Bằng cách huyền thoại hóa, các vị nhiên thần đã nhân hóa mang khuôn mặt của con người (hiền hậu hay dữ tợn), tâm lý của con người (vui mừng hay giận dữ) làm nên những nhận thức nền tảng cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Có thể nói việc “nhân hóa” các thần tự nhiên đã tạo ra một bước chuyển cho việc hình thành hệ thống quan niệm nhân hóa về khái niệm linh hồn tổ tiên. Đây cũng chính là giai đoạn con người bắt đầu khám phá về bản thân mình. Đến một thời điểm nào đó, mối quan hệ giữa cái hữu hình và cái vô hình, nhất là cái sống và cái chết đã làm con người bận tâm và hình thành căn bản quan niệm then chốt làm nên niềm tin của tín ngưỡng này. Vẫn với quan niệm vật linh, “hồn linh” kể trên, họ tin rằng trong mỗi con người đều có phần “hồn” linh còn tồn tại và gắn bó với các thế hệ hậu sinh kế tiếp. Người sống ở lẫn với linh hồn người chết.
Trong nhận thức người Việt, thể xác và linh hồn vừa gắn bó, vừa tách biệt. Ở cõi dương trần, chúng gắn bó khi sống và tách biệt khi chết, thể xác đã hòa vào cát bụi nhưng phần linh hồn vẫn tồn tại chuyển sang sống ở một “thế giới khác” là cõi âm. Cõi âm ấy cũng có mọi nhu cầu tương đương như cuộc sống trần thế dương gian. Theo quan niệm dân gian, “chết” chưa phải là hết. “Chết” cũng là một dạng “sống”, “sống” trong một môi trường khác – cõi âm.
Người ta cho rằng nếu người chết không được hậu thế cúng tế đầy đủ, cung cấp lễ vật đầy đủ sẽ trở thành “ma đói”, lang thang, quấy nhiễu người sống. Nghi lễ cúng tế tại các am cô hồn nhằm lễ “bố thí” chúng sinh lập ở cuối làng, hay trong lễ Vu Lan (rằm tháng Bảy) dành cho “thập loại chúng sinh” cho phép chúng ta nhận ra đó là những biểu hiện mong muốn chia sẻ, an ủi những linh hồn bơ vơ, thiếu đói không có người cúng tế. Một hiện tượng khá bí ẩn nhưng rất được con người tin tưởng đó là thái độ của chúng ta đối với các linh hồn ở âm phủ, người chết thiện thảo thì họ phù trợ cho người đang sống.
Mối quan hệ giữa những người sống và những người chết cùng chung huyết thống lại càng gắn bó hơn. Nhất là từ khi có tiếp cận và tiếp thu ảnh hưởng của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo. Trong vòng hai, ba đời thì đó còn là những kỷ niệm rất cụ thể và sâu sắc. Ông bà, cha mẹ dù qua đời nhưng linh hồn vẫn luôn hiện diện gần gũi trong không gian sống của hậu sinh. Trong tâm tưởng của con cháu, và con cháu luôn cảm thấy trách nhiệm cúng tế cả về vật chất lẫn tinh thần đối với họ. Niềm tin vào cái chết chẳng qua là một cuộc trở về gặp tổ tiên, ông bà và linh hồn tổ tiên có thể sẽ dõi theo, phù hộ độ trì cho con cháu, đã là cơ sở nhận thức chủ yếu hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
-
- 2.3. Về nguồn gốc xã hội:
Xã hội nông nghiệp cổ truyền của người Việt cũng từ lâu hình thành những cơ sở tồn tại khách quan, có những cơ sở kinh tế nhất định cho việc hình thành và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Trước hết đó là sự phụ thuộc vào các lực lượng tự nhiên của nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp. Đây chính là môi trường thuận lợi cho sự xuất hiện quan niệm về tín ngưỡng đa thần trong đó có tín ngưỡng thờ cúng linh hồn ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Xét về phương diện kinh tế, làng xã Việt Nam đã gần như một đơn vị độc lập và tương tự như thế, các tế bào của nó - hộ gia đình nhỏ cũng có tính độc lập tương đối. Đây là nhân tố quan trọng gắn bó các thành viên của gia đình cùng một thế hệ và giữa các thế hệ. Mở rộng ra, các gia đình cư trú quần tụ theo dòng họ và nhiều dòng họ tập hợp thành làng. Trước làng, con người không tồn tại với tư cách cá nhân đơn lẻ mà dưới danh nghĩa thành tố trong gia đình, dòng họ - những đơn vị huyết thống cơ sở. Có thể nói nền kinh tế tiểu nông ấy là mảnh đất thuận lợi về sau cho việc củng cố và phát triển nâng lên thành ý thức dân tộc, cũng như từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng xã nâng lên thành thờ cúng tổ tiên của quốc gia dân tộc đó là thờ cúng Vua Hùng.
Trong khía cạnh kinh tế này có một điểm quan trọng tạo nên nét khác biệt trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam và Trung Hoa. Do đặc trưng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, gió mùa nên Việt Nam sản xuất lúa nước theo truyền thống tiểu canh kết hợp với nuôi gia súc nhỏ. Vì vậy sản xuất không đòi hỏi tập trung nhân công theo quy mô lớn như ở nơi sản xuất lúa mỳ khô, công cụ sản xuất cũng nhỏ, gọn nhẹ, mọi thành viên trong gia đình từ phụ nữ, trẻ em đều sử dụng dễ dàng. Kết hợp tất yếu của quy trình sản xuất này khiến người Việt gắn bó với gia đình, thường là gia đình hạt nhân, chặt chẽ hơn so với kết cấu dòng họ. Ngày nay, do mở cửa hội nhập, đô thị hóa, công nghiệp hóa nên sự gắn kết dòng tộc, làng xã có nguy cơ bị mai một. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có vai trò duy trì sự gắn kết cần được chú ý bảo lưu và phát huy giá trị của nó. Thực trạng hiện thời hầu như gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên (dù thờ chính hay thờ vọng), nhưng không phải dòng họ nào cũng có từ đường.
Hình thức tổ chức xã hội cũng là một yếu tố quan trọng là cơ sở cho việc hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Ở giai đoạn thị tộc phụ quyền, người đàn ông bắt đầu nắm giữ quyền hành quản lý gia đình do họ đã có vai trò là lực lượng quan trọng trong hoạt động kinh tế, quyền gia trưởng của họ tăng lên cùng với sự tiếp nhận ảnh hưởng của Nho giáo. Về sau lễ giáo và pháp luật trong thời kỳ phong kiến trung đại sau thế kỷ XV bắt buộc vợ và con cái họ tuyệt đối phục tùng và tôn trọng cái uy quyền đã được xác lập ấy, không chỉ khi họ còn sống mà cả khi họ đã qua đời. Những đứa con mang họ cha đã kế tiếp ý thức về uy quyền, và phải chăng các nghi thức ma chay, cúng tế tổ tiên cũng chính là “hình thức phản ánh “hoang đường” quyền hành gia trưởng trong một gia đình”. Tuy vậy, cũng ghi nhận những yếu tố của thời kỳ mẫu quyền vẫn được bảo lưu ở một mức độ nhất định trong xã hội Việt Nam hiện nay. Vì vậy, cần có sự chú ý ở từng trường hợp cụ thể biểu hiện trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ra đời và duy trì trong những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định. Từ thời kỳ xã hội có hình thức liên minh cộng đồng bộ lạc đến hình thức liên kết gia đình phụ quyền sơ khai theo trục huyết thống nam, đến thời kỳ phong kiến điển hình, và đến hiện nay đã là một chặng đường lịch sử quanh co, phức tạp. Nhưng xu hướng chính là theo con đường “chung tộc danh về phía bố”, các gia đình nhỏ liên kết lại với nhau thành dòng họ. Đây là xã hội có hình thức ngoại tộc hôn vì các thành viên trong họ liên kết với nhau bằng sợi dây huyết thống và cùng chung một vị thủy tổ. Nhưng vẫn có những quy định nghiêm ngặt. Ngày nay luật Hôn nhân và gia đình năm 2013 có những điều chỉnh mới.
Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở người Việt đã hình thành, tồn tại và phát triển trên các cơ sở nhận thức, quan niệm tâm linh và một điều kiện đặc thù, nền tảng kinh tế xã hội tư tưởng khá sớm, bền vững. Có thể nói những yếu tố nhận thức, tâm linh có tính bản địa và mộc mạc về sau đã được thể chế hóa, hợp pháp hóa nhờ hệ tư tưởng Nho giáo, và sự hỗn dung các yếu tố của Đạo giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, sự ủng hộ của các vương triều, các nhà nước. Chính vì vậy, tín ngưỡng này đã được bảo tồn và phát huy lâu dài qua các thời kỳ suốt tiến trình lịch sử nhiều biến động.
-
- 2.4. Về nguồn gốc tâm lý của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên:
Một số yếu tố tâm lý của cư dân nông nghiệp lúa nước trong cộng đồng dân tộc Việt Nam cũng góp phần hình thành và duy trì, phát huy tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong cộng đồng người Việt. Đó là sự lo lắng, sợ hãi, lòng biết ơn, kính trọng … của con người đối với các đối tượng thiêng liêng, linh hồn tổ tiên được thờ cúng. Điều kiện địa lý tự nhiên, lịch sử văn hóa, các quan hệ với các nước và khu vực… đã là những tác nhân hình thành đặc điểm tâm lý của người Việt.
Trước hết, người Việt phải đối diện với rất nhiều các thế lực uy hiếp sự sinh tồn, phát triển. Sợ hãi là yếu tố xúc cảm có tác động mạnh mẽ đến hành vi thờ cúng tổ tiên. Giai đoạn về sau trong chế độ phụ hệ, quyền lực của người đàn ông làm nảy sinh ở người phụ nữ và con cháu của họ sự quy thuận lẫn cảm giác sợ hãi, kể cả khi người đàn ông gia trưởng còn sống và khi họ đã chết. Bởi vậy, niềm tin rằng, nếu không thờ cúng tổ tiên, chẳng những không được phù hộ, che chở mà còn bị trách mắng, quở phạt, khiến cho cuộc sống trở nên khó khăn, vất vả và bất hạnh đã trở thành niềm tin thâm căn cố đế trong tâm lý, tư tưởng của người Việt Nam ta.
Trong cuộc sống hiện nay các yếu tố đấy vẫn tồn tại, lại thêm nhiều hiểm họa bất trắc của thời hiện đại. Con người còn gặp nhiều khó khăn, rủi ro, bất hạnh, sa cơ, lỡ vận, bệnh tật hiểm nghèo … Chúng ta còn thiếu tự tin vào bản thân mình khi phải đối mặt, giải quyết các vấn đề trên. Xuất phát từ nỗi lo lắng trước cuộc sống đầy những rủi ro, bất hạnh như vậy, con người mong muốn, có nhu cầu được che chở, giúp đỡ bởi các lực lượng siêu nhiên. Trong đó việc bảo lưu và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vẫn có cơ sở để tồn tại, phát huy. Cho đến hiện nay người Việt tin rằng, linh hồn tổ tiên sau khi rời khỏi thế giới hiện hữu sẽ trở thành những vị thần linh thiêng che chở, bảo vệ gia đình của họ, giúp con cháu gặp nhiều may mắn và tránh được rủi ro. Do vậy, cần phải thờ phụng tổ tiên một cách cẩn trọng, chu đáo.
Trong tất cả những điều gây nên tâm lý tiêu cực, cảm giác sợ hãi cho con người, có lẽ cái chết luôn là nỗi ám ảnh kinh hoàng, đáng sợ nhất nhưng không ai trốn chạy được nó. Do vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên với quan niệm chết là về quê, về với tổ tiên, về nơi cực lạc … khiến cho con người được an ủi, động viên rằng chúng ta chấp nhận cái chết thể xác một cách thanh thản, bình tĩnh, ít lo lắng và sợ hãi hơn. Đây cũng là vai trò của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được khẳng định trong bối cảnh hiện nay: thiên tai, dịch bệnh, tai nạn giao thông, xung đột gia tăng càng làm cho người ta hướng về loại hình tín ngưỡng này.
Dù cho nỗi lo lắng, sự sợ hãi có vai trò quan trọng trong việc hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong cộng đồng người Việt, nhưng nếu chỉ vì thế mà thờ cúng tổ tiên được hình thành, thì có lẽ tín ngưỡng này đã không tồn tại lâu bền như vậy. Chúng tôi nhấn mạnh rằng cho đến hiện nay yếu tố tâm lý đóng vai trò quyết định đến việc duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt chính là sự tôn kính, lòng biết ơn đối với các thế hệ đi trước, các tiền nhân, là tình yêu thương và lòng hiếu thảo của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ.
- 2.5. Về bản chất tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên:
Như vậy bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là gì?
Các nhà Tôn giáo học trong nước và thế giới đã đi đến đồng thuận nhận định: Tương tự như tất cả những tôn giáo, tín ngưỡng khác, bản chất niềm tin tôn giáo, niềm tin trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là sự phản ánh sai lệch hiện thực, là sự phản ánh “hư ảo”, “khúc xạ” của những lực lượng bên ngoài, có tác động đến con người, chi phối cuộc sống hằng ngày có sự sai lạc vào trong suy nghĩ con người. Trong quá trình đó, linh hồn tổ tiên con người được thiêng hóa gắn với sức mạnh siêu nhiên. Đó chính là sự thiêng liêng hoá, thần thánh hoá bắt nguồn từ quan niệm về sự bất diệt của linh hồn. Sự thiêng liêng hoá, thần thánh hoá tổ tiên còn là sự tưởng tượng, sự khát khao mong muốn có sự bất tử của người thân yêu, sự đồng hành trợ giúp của họ. Mong ước ấy tuy được thần thánh hóa, song nó lại có cội nguồn từ cuộc sống hiện thực. Quan niệm về linh hồn tổ tiên bất tử, có công năng kỳ diệu được hình thành và tồn tại là khát khao của họ. Niềm tin đó giúp con người vượt qua cái trần tục, đời thường, thúc đẩy sự tìm tòi, vượt qua trạng thái bất lực, yếu ớt, cô đơn hiện tồn để nâng đỡ họ tiến về phía trước, khắc phục sự hẫng hụt về tinh thần. Xét về mặt đạo đức, quan niệm trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, ý thức hướng về sức mạnh tâm linh do linh hồn tổ tiên mang giá trị nhân văn sâu sắc, nó phát triển mối thiện tâm ở mỗi con người trong cộng đồng xã hội. Ngày nay xã hội Việt Nam biến động rất nhanh, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có vai trò đưa lại sự an định, cố kết cộng đồng, định hướng lối sống có đạo đức văn hóa.
Một phương diện khác của vai trò tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn là sự lý giải cho con người về thắc mắc cuộc sống sau khi đã chết. Xét về mặt nhận thức, chủ thể nhận thức và phản ánh là người đang sống, khách thể được nhận thức và được phản ánh là tồn tại của tổ tiên sau khi đã mất. Xét về mặt xã hội hiện đại, chúng ta biết khía cạnh phản ánh này mang tính tâm lý, tâm linh, đó là sự phản ánh “hoang đường” quyền hành của người gia trưởng. Đó là kết quả tất yếu của quá trình phân hóa, tiến hóa xã hội từ chế độ mẫu quyền sang chế độ phụ quyền. Bản chất xã hội của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được thể hiện rõ nét trong quan niệm về linh hồn tổ tiên đã phân tích ở trên. Chúng tôi cho rằng bản chất đó là sự phản ánh nội dung, đối tượng và hình thức phản ánh trong tín ngưỡng này được qui định bởi các cơ sở, nguồn gốc xã hội, nhận thức và tâm lý của nó còn tồn tại lâu dài.
Tóm lại, với những phân tích trên đây chúng ta có thể kết luận: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, một hiện tượng lịch sử - xã hội và văn hóa thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, là sự phản ánh tồn tại xã hội, chịu sự quy định của các điều kiện khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài con người. Tuy phản ánh tồn tại xã hội, nhưng có tính độc lập tương đối, hình thành sớm và tồn tại lâu dài trong xã hội Việt Nam.
- Các nghi thức, nghi lễ trong thờ cúng tổ tiên:
Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mà thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập “mối liên hệ” giữa người sống với người chết, giữa người ở thế giới hiện tại và thế giới tâm linh. Qua đó sự thể hiện quan niệm về sự tồn tại đồng hành của linh hồn người đã khuất có quan hệ huyết thống với người sống, nó còn là nhân sinh quan của người Việt Nam cho rằng: “sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”. Các nghi thức thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam tuy phần lớn phỏng theo điển lễ Nho giáo, nhưng lại có những yếu tố rất bản địa, có yếu tố gần gũi với Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo. Mặt khác với tính chất một tín ngưỡng dân dã, các hành vi lễ thức thường có sự du di, được thực hành theo điều kiện cụ thể, tâm thức dân gian và cũng không hoàn toàn thống nhất ở các gia đình, các địa phương, thời đại.
Thời gian cúng giỗ tuy được coi là những ngày húy kỵ của tổ tiên, những ngày lễ, tết trong năm nhưng cũng có sự du di. Ngoài ra, việc cúng giỗ tổ tiên cũng được tổ chức vào những ngày trong gia đình có sự kiện quan trọng như lấy vợ, làm nhà, tậu trâu, thi cử, đi xa, nhà có người ốm đau, hay những lúc được mãn nguyện nhưng nó còn bị tác động bởi rất nhiều nhân tố bên ngoài.
3.1. Cấp độ thờ cúng tổ tiên trong gia đình:
Nghi lễ thờ cúng tổ tiên phản ánh đặc tính của cư dân nông nghiệp đa thần giáo, trong gia đình người ta thường thờ phụng nhiều vị thần. Bên cạnh việc thờ tổ tiên, thờ Phật, người ta còn thờ bà Cô, ông Mãnh (ông Hoàng) là những người thân thích, chết trẻ, hoặc chết vào giờ linh thiêng. Ở một số gia đình, vị trí bàn thờ tổ tiên được sắp xếp theo những quy ước nhất định. Ví dụ thờ Thánh sư ở góc nhà, thờ Tiền chủ ở bàn thờ đặt ngoài sân, thờ bà Cô, ông Mãnh ở cạnh thấp hơn bàn thờ tổ tiên…
Việc bài trí bàn thờ gia tiên thường ở vị trí trang trọng trung tâm nhất, tuy kích thước các vật dụng không giống nhau. Điều này phụ thuộc vào các quan niệm tâm linh và cả điều kiện kinh tế, văn hóa của gia chủ. Nhìn chung bàn thờ gia tiên nào cũng có một số đồ thờ chủ yếu sau: Bài vị, bát hương, đĩa đèn, bình hoa, chén rượu, mâm đựng hoa quả…. Các gia đình bình dân, đồ thờ thường được làm bằng gỗ hoặc sành sứ, còn các gia đình giàu có thế nào cũng có đồ thờ tự bằng đồng. Bàn thờ gia tiên của ngành trưởng phức tạp hơn ngành thứ, của chi trưởng phức tạp hơn chi thứ, gia đình con thứ, con út chỉ thờ vọng nên bài trí bàn thờ cũng đơn giản hơn con trưởng
Việc thờ cúng tổ tiên tại gia đình thường được tiến hành quanh năm, xuất phát từ quan niệm dù đã khuất nhưng linh hồn họ vẫn luôn ở bên cạnh con cháu. Không chỉ cúng lễ trong các dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp, cưới xin…, không chỉ trong những ngày lễ tiết như Tết Nguyên Đán, Thanh Minh, Hàn Thực, Đoan Ngọ…, các ngày Sóc (ngày mồng một), Vọng (ngày rằm) theo chu kỳ tuần trăng, mà các vị tổ tiên còn được con cháu kính cáo mọi chuyện vui buồn: sinh nở, ốm đau, thi cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hòa, dựng vợ gả chồng… Con cháu còn kính mời các vị về hưởng thụ hoa trái đầu mùa, lễ tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc. Có thể nói trong tâm thức những người sống tổ tiên là bất tử và thường xuyên có vai trò tác động đến đời sống của thế hệ hậu sinh, con cháu.
3.2. Cấp độ thờ cúng tổ tiên trong dòng họ:
Bắt đầu từ sớm nhưng rõ rệt hơn từ lúc tiếp thu văn hóa Nho giáo mà thờ cúng tổ tiên được nâng cấp trong dòng tộc như là một cấp độ cao hơn. Con cháu bắt buộc phải có trách nhiệm thờ phụng nhiều đời: Cao, Tằng, Tổ, Khảo, bàn thờ các gia đình chi trưởng, ngành trưởng có đặt các tấm thần chủ được làm bằng gỗ táo (với ý nghĩa cây táo sống nghìn năm) ghi rõ tên tuổi các vị tổ. Trên bàn thờ ở các từ đường dòng họ còn có bài vị Thủy tổ của họ, bài vị có sự chuyển dịch. Khi thờ cúng đến đời thứ năm thì thần chủ của đời này được đem chôn, vì thế mới có câu “Ngũ đại mai thần chủ”. Các thần chủ đời sau được chuyển lên bậc trên, và tấm thần chủ của ông mới nhất được thay vào vị trí “khảo”. Như vậy, các gia đình chi thứ, ngành thứ, các vị tổ đời thứ tư, thứ ba chỉ được thờ vọng, mà chủ yếu thờ hai đời gần nhất (ông bà, cha mẹ).
Gia tộc cũng có những qui định tín ngưỡng cho việc thờ cúng Thủy tổ dòng họ. Mặc dù đã qua nhiều đời nhưng ngày giỗ họ vẫn được lưu truyền nhờ việc ghi chép gia phả. Trong ngày giỗ Thủy tổ, tất cả con cháu trưởng các chi, ngành, nhánh buộc phải có mặt. Các con cháu khác tùy vào hoàn cảnh mà mang đồ tới góp giỗ. Lễ giỗ Tổ được tổ chức chu đáo và duy trì đều đặn hàng năm.
3.3. Thờ cúng tổ tiên cấp Quốc gia dân tộc – đền thờ Hùng Vương:
Người Việt luôn tôn thờ công đức của cha ông, tộc họ, những người đã khuất cùng huyết thống, đồng thời tôn thờ tất cả những người có công với nước, với xóm làng, những anh hùng dân tộc, anh hùng văn hóa. Mở rộng, nâng cấp trong hệ thống tín ngưỡng ấy, với người Việt Nam tự bao đời nay thực hành ngày giỗ tổ Hùng vương tại Đền Hùng luôn được coi trọng là Quốc giỗ. Đó là sự tưởng nhớ, là sự trở về với cội nguồn của dân tộc. Từ các truyền thuyết thời kỳ Hùng Vương, đặc biệt là truyền thuyết dân tộc có chung cội nguồn từ bào thai trăm trứng đến sự tích Hùng Vương, người Việt đã tạo dựng lên tín ngưỡng về ông Tổ chung của dân tộc mình một lý lịch hoàn chỉnh, có cả ngày mất (kỵ). Theo Toan Ánh, “trước đây hàng năm tại đền Vua Hùng ở làng Cổ Tích, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ”. Ngày nay giỗ tổ Hùng Vương được công nhận là sự kiện quan trọng của quốc gia, tại Đền Hùng nơi được công nhận là Di tích văn hóa của nhân loại có tổ chức quốc tế và có đại diện của triều đình tới đứng chủ tế trong ngày giỗ Tổ. Dân chúng các nơi kéo về Đền Hùng lễ Tổ và ngay cả tại Đền Hùng của các tỉnh cũng có tế vọng vua Hùng. Vì thế, lễ giỗ tổ Hùng Vương là ngày giỗ quan trọng nhất của người Việt Nam: “Dù ai đi ngược về xuôi/Nhớ ngày giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba”.
3.4. Một số nghi thức, nghi lễ trong thờ cúng tổ tiên:
Tương đương các tôn giáo, tín ngưỡng khác, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có hàng loạt nghi lễ, nghi thức là hình thức biểu hiện cho nội dung, niềm tin, quan niệm của nó.
* Cầu cúng lễ bái tại các gia đình:
Quan niệm người Việt vong hồn gia tiên luôn ở gần mình, người sống cảm thấy như tiếp xúc với thế giới vô hình qua mọi việc cầu cúng lễ bái: mỗi tuần hoặc mỗi tiết hoặc ngày kỵ đều có làm lễ cáo gia tiên qua hàng loạt hành vi thực hành tín ngưỡng.
Mỗi một biến cố vui, buồn xảy ra trong gia đình, gia chủ đều khấn vái gia tiên, trước là để trình bày sự kiện, sau là để xin sự phù hộ. Những biến cố được coi là quan trọng: vợ sinh con; con đầy cữ, đầy tháng, đầy năm; con cái bắt đầu đi học, sửa soạn đi thi, đã thi đỗ; gả chồng cho con gái, dựng vợ cho con trai; lập được công danh(được thăng chức); … cùng những biến cố buồn: có người qua đời, lúc bắt đầu đưa ma người thân; trong nhà có người ốm đau; gặp những chuyện không may… đều có thực hành nghi lễ thờ cúng trước bàn thờ tổ tiên.
* Nghi lễ đốt hương:
Trong việc tế lễ bao giờ cũng có đốt hương. Gốc tích sự đốt hương là từ Tây Vực. Có lẽ tục đốt hương truyền sang nước ta từ thời Nho giáo du nhập. Hương đốt để cầu linh hồn tiên tổ đã thiêng liêng hóa như thần thánh giáng lâm. Đốt hương thường đốt số lẻ (1, 3, 5, …) vì nén lẻ thuộc dương vì cầu cho người đang sống ở dương thế.
*Nghi lễ tại từ đường dòng họ:
Từ đường có thể lớn hay nhỏ, quy mô hay chỉ là một căn nhà có thiết trí bàn thờ ghi tên tuổi những người trong dòng họ đã khuất theo dòng họ ấy đông đúc, giàu có hay chức vị. Tuy nhiên, từ đường cũng có thể là một gian phòng dành riêng ở nhà người trưởng tộc tùy theo điều kiện của dòng tộc.
* Bài trí và lễ vật thờ cúng:
Nhà thờ Thủy tổ tức từ đường chung cho cả dòng họ không phân biệt chi phái thì có thần chủ thờ cúng mãi mãi, riêng từ đường của từng gia tộc thì chỉ có thần chủ bốn đời Cao, Tằng, Tổ, Khảo.
Thần chủ thường được làm bằng gỗ quý, dài khoảng một thước, giữa có khắc họ tên, chức tước, hai bên đề ngày sinh và ngày mất của tổ tiên. Thần chủ lại được đặt trong một hộp gỗ và để trong khám thờ, phía ngoài có vải đỏ che kín, khi nào có tế tự mới mở ra và quét dọn dạch sẽ. Mỗi khi đến đời thứ năm thì đem thần chủ Cao tổ đi chôn (mai) và tăng Tằng, Tổ, Khảo lên thêm bậc nữa mới đêm bài vị thần của người mới mất vào thế chỗ và là thần chủ bậc Khảo. Tục lệ này được ghi chép trong cổ lễ và gọi là phép “Ngũ đại mai thần chủ” để từ đường luôn chỉ thờ bốn đời tổ tiên mà thôi.
Ngoài thần chủ bốn đời ra, các vật dùng để tế lễ bao gồm có đèn nến, lư hương, bình hoa, đài rượu, đài nước, mâm rượu mâm trầu,... đều phải thanh khiết và làm bằng gỗ sơn son thiếp vàng hay bằng đồng thau. Cỗ bàn nấu xong, phải cúng tổ gia tiên trước – con cháu mới được ăn sau. Trên các vách thường treo các tấm hoành và vài ba đôi liễn, nhắc nhở đến sự nghiệp và công đức của các vị tổ tiên.
Trong việc cúng tổ lễ tổ tiên, sự thành kính, tín tưởng phải đặt hàng đầu. Tâm động quỷ thần tri, trong lòng nghĩ thế nào quỷ thần thấy rõ. Việc cúng bái tổ tiên thiếu thành kính tức là thiếu sự hiếu thảo được thể hiện qua nghi lễ.
*Nghi thức cáo gia tiên:
Gia trưởng bao giờ cũng lo mọi lễ nghi cúng bái trong gia đình. Mỗi lần cúng lễ đều có đồ lễ, thường bao gồm trầu rượu hoa quả, vàng hương và nước lạnh, nhưng trong trường hợp khẩn cấp, đồ lễ có thể giảm xuống mức tối thiểu, chỉ cần một chén nước lạnh, một nén hương thắp lên bàn thờ là đủ. Ngoài ra, tùy theo các gia chủ giàu nghèo và tùy theo những buổi lễ, đồ lễ có thể gồm nhiều thứ khác như xôi chè, oản, chuối hoặc cỗ mặn, có khi thêm đồ mã.
Sau khi đặt đồ lễ lên bàn thờ, gia trưởng khăn áo chỉnh tề, thắp hương lên bát hương, rồi đứng trước bàn thờ khấn. Trước thi khấn, vái ba vái và khi khấn xong, lễ bốn lễ thêm ba vái, gọi là bốn lễ rưỡi. Bàn thờ lúc đó phải có thắp đèn hoặc nến. Cũng có nhà có đỉnh trầm. Hương thắp trên bàn thờ, bao giờ cũng là số lẻ. Sau khi gia trưởng khấn lễ xong, những người khác trong gia đình, ngoại trừ trẻ nhỏ, cũng lần lượt tới lễ trước bàn thờ bốn lễ rưỡi. Thường thì chỉ trong những ngày giỗ, mọi người trong gia đình mới cần lễ đủ.
Ngày nay, tại các đô thị có sự giản tiện hơn rất nhiều về nghi lễ, người ta lấy vái thay lễ. Trước khi khấn, vái ba vái ngắn, khấn xong, vái thêm bốn vái dài và ba vái ngắn thay cho bốn lễ rưỡi.
Điều này cũng thể hiện trong các dịp lễ tết. Trong ba ngày Tết Nguyên Đán, con cháu có bổn phận phải đem trầu rượu bánh trái đến nhà thờ để tế lễ tổ tiên, riêng ngày húy nhật Thủy tổ thì gồm đủ mặt con cháu các chi phái và lễ vật cũng long trọng hơn, gồm cả lễ Tam sinh, xôi rượu, trầu cau, …
Lễ tạ:
Sau khi mọi người đã lễ vái xong, người ta chờ cho tàn một tuần hương, gia trưởng tới trước bàn thờ lễ tạ, thắp thêm mấy nén hương nữa. Lễ tạ xong, gia trưởng hạ vàng mã trên bàn thờ đem hóa. Lúc hóa vàng, người ta thường lấy chén rượu cúng đổ vào đống tàn vàng, cho rằng như vậy người khuất mới nhận được số vàng người sống cúng và đồ vật vàng mã trên mới biến thành đồ đạc và tiền thật dưới cõi âm. Lúc này đồ vật mới được hạ xuống.
Lễ tạ là lễ tạ ơn gia tiên đã chứng giám lòng thành của con cháu và đã hưởng những lễ của con cháu dâng lên. Người ta tin rằng, trong lúc tuần hương đang cháy là tổ tiên đang về hưởng lễ con cháu dâng lên. Trong lúc này, y môn trên bàn thờ được buông xuống, khi lễ tạ xong, y môn lại được kéo lên, cũng như người sống khi ăn uống không muốn con cháu nhìn mồm. Y môn thường chỉ buông xuống khi nào trong việc cáo gia có cúng lễ mặn.
Khi cúng bái xong, lễ vật được bày thành cỗ bàn để cả dòng họ cùng nhau ăn uống, phần còn lại chia cho mỗi gia đình một ít mang về. Các tuần lễ khác thì chỉ gia đình tộc trưởng đứng ra lo liệu.
Ở từ đường các chi phái họ cũng có lễ giôc Tổ bản chi và tuần đại tế vào ngày Thượng Nguyên (rằm tháng Giêng) hay Trung Nguyên (rằm tháng Bảy). Nghi thức tế tự tổ tiên cũng giống như lễ tê thần, chỉ khác khi xướng thì thay hai chữ “tôn thần” bằng “tiên tổ” hay “thần tổ” (nếu đã được sắc phong). Bao giờ người tộc trưởng cũng làm tế chủ nhưng nếu đang có đại tang hay còn nhỏ tuổi thì dòng họ cử một vị lão thành có đạo đức thuộc thế hệ cao nhất làm chủ lễ Đại bái thay thế.
Bài văn khấn gia tiên:
Đồ lễ đặt lên bàn thờ, hương đèn đã thắp, gia chủ khán trình bày với gia tiên lý do việc cúng lễ, đồng thời mời gia tiên hưởng lễ; gia trưởng phải mời hết các cụ kỵ từ ngũ đại trở xuống, cùng tất cả các chú bác, cô dì, anh em nội ngoại đã khuất.
Bài văn khấn xưa thường dùng chữ nho, nhưng trong dân gian cũng nhiều người dùn chứ nôm, nhất là trong gia đình người gia trưởng đã mất, người vợ thường đảm nhiệm việc cúng khấn thay các con nhỏ. Văn khấn dùng chữ nôm để tránh sự sai lầm vì không hiểu nghĩa chứ nho. Kể từ khi chữ quốc ngữ được dùng thay thế Hán tự cho đến hiện nay, việc khấn vái người Việt đều dùng hầu hết tiếng Việt.
4. Thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam hiện nay:
Từ sau đổi mới, các loại hình tôn giáo tín ngưỡng đều được coi là “trỗi dậy” sau một giấc ngủ dài. Đời sống tôn giáo trở nên sôi động. Cơ sở thờ tự các tôn giáo ngày càng được xây dựng, tu bổ khang trang hơn. Cùng với nó, số lượng tín đồ đến tham dự các hình thức nghi lễ tôn giáo cũng nhiều hơn. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng hòa mình vào xu thế chung đó đang được chú ý khôi phục trở lại.
Thờ cúng tổ tiên trong các cấp độ gia đình, dòng tộc cũng ngày càng được chú trọng hơn. Nếu sinh hoạt tôn giáo chỉ đáp ứng được nhu cầu tâm linh của một bộ phận người dân là tín đồ của tôn giáo đó thì thờ cúng tổ tiên đáp ứng nhu cầu tâm linh của đại bộ phận người Việt Nam hiện nay. Nhà nước cũng rất chú ý quan tâm, đề ra chính sách, pháp luật để bảo hộ cho sinh hoạt tín ngưỡng.
Nếu trước kia, chúng ta còn bắt gặp những gia đình không có ban thờ tổ tiên trong nhà thì ngày nay nhà nào cũng có. Cùng với sự phát triển kinh tế, những trang thờ nhỏ bé hay những bát hương đặt tạm bợ trên nóc tủ thời bao cấp dần dần được thay thế bằng những ban thờ cố định với nhiều kiểu dáng mẫu mã trang nghiêm và đẹp mắt. Vị trí đặt ban thờ tổ tiên cũng được chú trọng. Ngày nay, để đặt một ban thờ, người ta không còn tùy tiện chỗ nào cũng được như trước mà cần phải xem hướng ban thờ, xem kích thước ban thờ về chiều cao, chiều dài, chiều rộng. Ngày đặt ban thờ hay bốc bát hương cũng là một sự kiện quan trọng của gia đình. Những gia đình có điều kiện, người ta thường dành một phòng riêng, trên tầng cao nhất, hay khu vưc sạch sẽ và trang trọng nhất trong ngôi nhà làm phòng thờ. Sự thay đổi trong cách thức bài trí bát hương và không gian thờ tổ tiên trong các gia đình ngày nay là chỉ báo rõ nét thể hiện tầm quan trọng của thờ cúng tổ tiên trong đời sống tâm linh người Việt Nam đương đại.
Hiện nay cách thức bài trí ban thờ tổ tiên, ban thờ dòng tộc cũng có nhiều thay đổi. Cách thức bài trí ban thờ tổ tiên, ban thờ dòng tộc cũng có nhiều thay đổi. Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính mô tả đồ thờ trước kia trong nhà thờ như sau: “Nhà thờ Thủy tổ có riêng một thần chủ để thờ mãi mãi, không bao giờ thay đổi, gọi là “bách thế bất diêu chi chủ”. Còn về gia từ nhà phú quý có đủ thần chủ bốn đời, để thờ cao, tằng, tổ, khảo. Thần chủ làm bằng gỗ táo, lấy nghĩa rằng gỗ táo sống lâu được nghìn năm. Dài một thước, ở giữa đề tên, họ, chức tước và hai bên thì đề ngày tháng sinh tử của tổ tiên, có hộp vuông che kín và để trong long khảm, khi nào cúng tế mới mở ra. Hế đến năm đời thì lại đem thần chủ Cao tổ mai đi mà nhắc lần Tằng, Tổ, Khảo lên bực trên, rồi đem Ông mới nhất mà thế vào thần chủ ông Khảo, gọi là “Ngũ đại mai thần chủ”. Nhà thường dân cũng có nhà dùng thần chủ, cũng có nhà chỉ dùng một bộ ỷ để thờ”. Ngày nay, cách thức thờ cúng này rất ít gia đình còn duy trì được. Hầu hết các ban thờ gia tiên, đặc biệt là các ban thờ gia tiên tại thành phố không có thần chủ, không có long khảm đặt thần chủ, không có bài vị Cao, Tằng, Tổ, Khảo. Các bài vị đã được thay thế bằng ảnh hoặc tranh chân dung của những vị ông bà, cố can trong nhà, hay đơn giản hơn nữa là không có cả bài vị lẫn ảnh thờ. Một số ít gia đình, nhiều hơn tại các vùng làng quê còn giữ được Thần chủ, một số gia đình không giữ được thần chủ nhưng vẫn còn Long khảm trên ban thờ. Hiện nay, xu thế một số nhà thờ họ dựng lại Long khảm đặt trên ban thờ gia tộc dòng họ. Tuy nhiên, ý nghĩa của Thần chủ, Long khảm không mấy ai tường tận, trừ những vị chức sắc trong tộc. Vì vậy, phương thức thờ “Ngũ đại mai thần chủ” không còn được duy trì. Không có Thần chủ, không có bài vị các bậc Cao, Tằng, Tổ, Khảo nên giờ đây người ta không còn khái niệm chỉ thờ cúng tổ tiên năm đời. Những gia đình nào còn may mắn giữ lại được bài vị tổ tiên từ trước thì mãi mãi lưu giữ không tính đến chuyện đời thứ 5 thì phải mai đi thay thế hệ mới vào đó nữa. Bài vị tổ tiên được cọi như bảo vật cần được gìn giữ.
Mô hình thường thấy của một ban thờ tổ tiên hiện nay trong các gia đình là môt ban thờ hoặc trang thờ trên đó bày các bát hương. Ban thờ tổ tiên cũng đồng thời là ban thờ Thần linh cai quản ngôi nhà nên bài trí một ban thờ tổ tiên hiện nay thông thường gồm 3 bát hương. Bát to nhất ở giữa thờ thần linh; bát bên phải to thứ hai thờ gia tiên dòng tộc không kể nội hay ngoại và bao nhiêu đời; bát bên trái nhỏ hơn thờ những người mất trẻ (bà cô, ông mãnh) của dòng tộc. Cũng có những gia đình bài trí khác, gồm một bát hương thần linh ở giữa; bên phải là bát hương thờ bên nội; bên trái là bát hương thờ bên ngoại… Hiện không có quy chuẩn nghiêm ngặt cho sự bài trí ban thờ tổ tiên như trước.
Vai trò quan trọng của thờ cúng tổ tiên bên cạnh sự biểu hiện qua không gian trang trọng của ban thờ cúng tổ tiên trong gia đình còn thể hiện qua sự chú trọng xây dựng hệ thống nhà thờ tổ, nhà thờ dòng tộc. Trong những năm gần đây, nhiều nhà thờ họ đã được tu bổ, xây mới. Nhiều hộ gia đình đóng góp xây dựng nhà thờ tộc, nhà thờ họ lên tới vài tỉ đồng.
Xu thế xây dựng nhà thờ tộc được phục hồi nhưng xu thế cá nhân hóa thờ cúng tổ tiên cũng phát triển rất mạnh mẽ. Tính cá nhân hóa mà chúng tôi đề cập tới ở đây để chỉ xu thế thờ cúng tổ tiên ngày nay được chuyển vào từng thành viên trong gia đình. Nếu trước đây, thờ cúng tổ tiên được tập trung tại nhà dòng trưởng (trưởng tộc, trưởng họ, trưởng chi, con trưởng) thì nay, mọi thành viên trong gia đình đều thờ cúng tổ tiên tại gia đình mình. Nhiều gia đình vẫn còn giữ được tục lệ cứ giỗ tết tập trung lại vào nhà con trưởng để làm giỗ. Tuy nhiên, tại nhiều gia đình, ngày giỗ không còn là ngày con cháu tập trung như trước nữa. Hình thức cúng giỗ mang tính cộng đồng chung các thành viên trong gia đình được chuyển thành hình thức cúng giỗ cá thể. Mỗi thành viên trong gia đình làm lễ cúng giỗ người đã mất tại nhà mình. Như vậy, giả dụ một ông bố có 5 người con, khi ông bố mất đi, nếu theo hình thức cúng giỗ trước kia, các con sẽ tập trung tại nhà con trai trưởng để làm lễ cúng giỗ bố vào ngày giỗ và không làm tại nhà riêng của mình thì ngày nay cả 5 người con không phân biệt trai hay gái sẽ tiến hành làm lễ cúng giỗ bố tại nhà riêng của mình. Nếu cho rằng người mất có thể về được để hưởng thụ những vật phẩm mà người thân của mình cúng tế vào ngày giỗ thì ông bố này sẽ phải đi tới 5 ngôi nhà để hưởng 5 mâm cỗ thay vì một mâm như trước kia. Liệu có phải chính sự phát triển của mô hình gia đình hạt nhân đã ảnh hưởng tới sự thay đổi cách thức thờ cúng tổ tiên như trên? Hay đó chính là sự thể hiên của lối sống đô thị trong xã hội hiện đại, nơi mà không gian giao tiếp trực tiếp của con người ngày càng có xu hướng bị thu hẹp?
Sự chú trọng thờ cúng tổ tiên ngày nay còn được thể hiện ở sự chú trọng phần xây dựng mộ dòng tộc. Từ bao đời, phần mộ tổ tiên luôn được con cháu coi trọng và gìn giữ. Tục ngữ có câu “giữ như giữ mả tổ”. Câu tục ngữ đã thể hiện được tầm quan trọng của mồ mả tổ tiên đối với người sống. Tuy nhiên, theo chúng tôi, hiện nay đã có nhiều biểu hiện chú trọng phần mộ tổ tiên một cách hơi thái quá trong xã hội. Mọi người thường nghĩ rằng mộ tổ của dòng họ mình phải to, phải đẹp hơn những họ khác thì mới thể hiện được cái “đẳng cấp” của dòng họ nhà mình. Chăm sóc phần mộ tổ tiên là một nét văn hóa truyền thống của người Việt nhưng có lẽ không nhất thiết phải đua nhau như vậy. Nhiều gia đình đã lâm vào tình trạng kinh tế khó khăn, anh em bất đồng với những khoản đóng góp không nhỏ cho việc xây dựng phần mộ, nhà thờ như vậy. Đúng như nhiều người đã nói, chúng ta cần tìm một cách nào đó để tránh lãng phí và phiền hà cho những người thân đang sống thì có lẽ cũng sẽ hợp ý tổ tiên hơn.
Một thực trạng nữa về việc thờ cúng tổ tiên đó là không ít người tin rằng, thờ cúng tổ tiên thật hậu, thật đầy đủ thì bà tổ, ông tổ của nhà mình sẽ phù hộ con cháu làm ăn phát đạt, tai qua nạn khỏi. Cũng vì vậy nên mới có chuyện rằng, sáng ngày 30 tết, nhà bác và nhà chú thúc giục con cái để tranh rước ông bà ông vải về nhà mình trước. Điều này đã đi ngược lại với ý nghĩa ban sơ của việc thờ cúng tổ tiên: bày tỏ lòng biết ơn của thế hệ con cháu đối với cha ông, gắn kết dòng tộc. Cũng vì niềm tin này, và ý nghĩ rằng người sống sao thì người chết vậy, vào những ngày giỗ, con cháu thường đốt vàng mã để tổ tiên nhà mình “có cái mà tiêu”, nhưng nếu những năm trước đây, thị trường vàng mã còn nghèo chủng loại thì bây giờ, tất cả mọi thiết bị hiện đại, các cụ nhà mình đều có thể nhận được: điện thoại thông minh, nhà lầu, xe hơi, trang sức vàng bạc...Con cháu đốt nhiều, chi nhiều cho tiền vàng mã, và cùng với đó là gia tăng ô nhiễm môi trường cho người đang sống.
Nhiều gia đình tại Việt Nam trong hoàn cảnh mới hiện nay, công việc cúng tế được giao phó hoàn toàn cho người phụ nữ, chứ không như trước chỉ có người đàn ông, con trai trưởng mới có thể thực hiện. Trước kia, trong xã hội phong kiến, gia đình Việt Nam cần con trai để nối dõi và thờ cúng tổ tiên. Gia đình nào không có con trai sẽ không có người cúng giỗ và họ lựa chọn phương thức đóng góp tiền vào chùa để sau này nhờ nhà chùa hương khói cho mình. Ngày nay, quan niệm trọng nam khinh nữ vẫn còn đậm nét. Nhu cầu có con trai vẫn là một nhu cầu quan trọng, tạo nhiều áp lực đối với các gia đình đặc biệt là dòng trưởng. Tuy nhiên, hiện nay do nhiều con trai phải xa nhà làm ăn, nên vai trò cúng giỗ tổ tiên đã được giao phó lại cho con dâu – người phụ nữ. Câu hỏi đặt ra: Tại sao người phụ nữ có thể đảm trách lo công việc tâm linh, cúng giỗ tổ tiên cho gia đình chồng mà không thể lo cúng giỗ tổ tiên nhà mình? Bố mẹ mình trường hợp các gia đình không có con trai?
Chính sách sinh đẻ có kế hoạch khiến nhiều gia đình hiện nay dù mong muốn vẫn không thể có con trai. Đây là nỗi đau của nhiều ông bố. Một số ông bố cảm thấy mình có lỗi với tổ tiên vì từ đây không còn người hương khói tổ tiên. Áp lực có con trai thờ cúng đã khiến nhiều gia đình tan vỡ. Hiện nay, một số gia đình không thuộc diện cán bộ nhà nước đã không thực hiện chủ trương sinh đẻ có kế hoạch chỉ vì mục đích phải có con trai. Một số khác có quan điểm hiện đại cho rằng con nào cũng được. Nếu con trai không có, vậy chẳng lẽ không thờ cúng tổ tiên nữa? Hẳn nhiên, các gia đình phải thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh của gia đình mình. Trước kia, các gia đình thường có cấu trúc tam đại, tứ đại đồng đường, anh em trai có gia đình nhưng vẫn sống chung với nhau và sống chung cùng bố mẹ. Mọi cúng giỗ do con trai trưởng của gia đình, dòng họ đảm trách. Mảnh đất gia đình dòng trưởng sinh sống cũng là mảnh đất của cha ông để lại. Tính chất đó quy định trách nhiệm cúng giỗ trao cho dòng trưởng. Ngày nay, hệ thống gia đình hạt nhân, con cái không ở cùng cha mẹ, anh chị em không sống chung trong một ngôi nhà. Quan niệm ai cúng người đó được hưởng lộc nên mọi gia đình đều có ban thờ gia tiên. Như vậy, trọng trách cúng giỗ không còn chỉ là con trai trưởng, trưởng họ, trưởng tộc. Nhu cầu cúng giỗ tổ tiên là nhu cầu của mọi thành viên trong gia đình gồm cả nam và nữ. Nhiều gia đình thành phố hiện nay thực hiện việc cúng giỗ tổ tiên cha mẹ trong từng gia đình nhỏ, không thực hiện cúng giỗ tập trung tại nhà con trưởng.
Tất cả những yếu tố mới trên đây cho thấy cho người phụ nữ có vai trò quan trọng hơn đối với các công việc tâm linh trong gia đình. Việc cúng giỗ bố mẹ chồng tại nhà riêng của hai vợ chồng đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự chấp thuận cúng giỗ tổ tiên, bố mẹ mình tại nhà mình. Cứ như vậy, trong xu thế phát triển của xã hội hiện đại, việc người phụ nữ đảm trách công việc cúng tế trong gia đình, cúng tế tổ tiên gia đình chồng và gia đình mình tại ngôi nhà chung của hai vợ chồng sẽ trở nên ngày càng phổ biến. Vai trò của người phụ nữ trong công việc tâm linh ngày càng được đề cao. Việc đó cũng góp phần làm gia tăng vai trò của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và giá trị của nó rất cần được chú ý, khuyến khích./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Đào Duy Anh (1938). Việt Nam văn hóa sử cương. NXB, Quan hải tùng thư, Huế.
- Phan Kế Bính, 1999. Việt Nam phong tục. NXB. Hà Nội.
- Nguyệt Hạ, 2005. Phong tục hôn lễ, tang lễ, tế lễ Việt Nam. NXB. Đà Nẵng.
- Bùi Lưu Phi Khanh, 2017. Nguồn gốc, bản chất tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam, Tạp chí VHNT số 401, tháng 11 – 2017. Nguồn: http://vhnt.org.vn/tin-tuc/van-hoa-co-truyen/30607/-nguon--goc-ban-chat-tin-nguong-tho-cung-to-tien-o-viet-nam
- Bùi Xuân Mỹ, 2001. Lễ tục trong gia đình người Việt Nam. NXB. Văn hóa thông tin.
- Đinh Kiều Nga, 2018. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, bản sắc văn hóa của người Việt. Ban Tôn giáo Chính phủ Nguồn: http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/1426/Tin_nguong_tho_cung_to_tien_ban_sac_van_hoa_cua_nguoi_Viet
- Nguyễn Thị Minh Ngọc, 2017. Biến đổi của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong xã hội Việt Nam đương đại. Viện Nghiên cứu Tôn giáo. Nguồn: http://circlegroup.vn/bien-doi-cua-tin-nguong-tho-cung-to-tien-trong-xa-hoi-viet-nam-duong-dai/
- Trần Đăng Sinh, Đào Đức Doãn, 2009. Giáo trình Tôn giáo học. NXB. Đại học Sư Phạm.
- Trương Thìn, 2010. Nghi lễ thờ cúng tổ tiên đền chùa miếu phủ. NXB. Thời đại.Ủy ban Thường vụ Quốc hội, 2004. Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 21/2004/PL-UBTVQH11 về tín ngưỡng, tôn giáo.
- Đặng Nghiêm Vạn, 2012. Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam. NXB. Chính trị Quốc gia.
- Nguyễn Thị Hải Yến, 2015. Nguồn gốc thờ cúng tổ tiên của người Việt, Tạp chí văn hóa nghệ thuật. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật. Nguồn: http://www.nxbctqg.org.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=5225:ngun-gc-th-cung-t-tien-ca-ngi-vit-&catid=112:tin-van-hoa-tu-tuong&Itemid=488
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://nukeviet.vn là vi phạm bản quyền