1. Chủ trương nhập thế của Phật giáo, “Phật pháp bất ly thế gian pháp”
Đức Phật là người sáng lập ra đạo Phật, Đức Phật là con người có thật của lịch sử, trải qua thực tiễn xã hội và cuộc sống, Ngài đã nhận thức rõ con người là chủ nhân tạo nên chính cuộc đời và vận mệnh của mình, Triết lý sống từ chính cuộc đời Ngài chỉ ra là chân lý hướng con người tới làm chủ vận mệnh của mình qua hành động thực tế (nhập thế) để cứu giúp con người khỏi khổ đau tìm tới an vui, hạnh phúc. Chính vì thế, cứu khổ, cứu nạn cho chúng sanh là phương châm đồng thời là hành động cốt lõi của Phật giáo. Theo giáo lý của Đức Phật, con đường đi tới giác ngộ và giải thoát khỏi khổ đau là kết quả của tu tập, thực hành chính pháp theo các thang bậc của lục độ, thứ tự: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ.
Bố thí là hành động của con người dùng cái mà mình có, bằng khả năng của mình vận động được người có để cùng giúp cho người khác (cho chúng sinh). Trong Phật giáo bố thí được xem là hạnh lành thể hiện tâm của con người thông qua hành động bố thí, người bố thí thể hiện tình thương yêu, tâm từ bị, tính rộng mở mới có thể thực hiện được việc bố thí hiệu quả. Việc bố thí có cấp độ từ thấp đến cao: Thấp là bố thí đồ ăn,vật dụng, tiền tài; cao là bố thí sự hiểu biết (lời khuyên bảo, sự răn dạy, kinh nghiệm sống, kiến thức); cao nữa là bố thí thân thể (hiến máu, cho từng phần cơ thể, cho sự sống để cứu giúp con người);…con người thực hiện hạnh bố thí với sự tự nguyện, bằng tâm từ bi được đánh giá là người có tâm đức lớn. Việc làm đó thể hiện sự cao thượng mang giá trị nhân văn của con người. Từ hành động bố thí tự nguyện đó con người tiến dần đến những nấc thang cao hơn để xóa bỏ những vướng mắc do tam độc tham, sân, si mà đạt tới sự giác ngộ chân chính và sự giải thoát khỏi khổ đau. Bởi vậy theo quan niệm và hành động của Phật giáo, nhập thế là phương châm cũng là cốt lõi của Phật giáo, “Phật pháp bất ly thế gian pháp. Trong kinh Dược sư, khi ngài A Nan hỏi bằng cách nào để thoát khỏi những kiếp nạn, đức Phật trả lời:
“Nếu có chúng hữu tình nào ăn ở bất hiếu, ngũ nghịch, phỉ báng ngôi Tam Bảo, phá hoại phép vua tôi, vi phạm điều cấm giới thì vua Diêm Ma pháp vương tùy tội nặng nhẹ mà hành phạt. Vì thế ta khuyên chúng hữu tình nên thắp đèn làm phan, phóng sanh, tu phước khiến khỏi được các tai ách, khỏi gặp những kiếp nạn”.[1]
Như vậy, trong quan niệm của Phật giáo, những việc làm như phóng sinh đối với chúng sinh, tu phước, làm việc thiện chính là con đường để giúp con người có được một cuộc sống bình an, thoát khỏi tai họa. Những việc làm đó không nằm ngoài xã hội con người, không nằm ngoài thế gian. Những việc làm đó rất gần gũi với thế gian và là nội dung của hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo. Vì thế nêm mới nói nhập thế giúp đời là phương châm, là cốt lõi của Phật giáo. “Hoạt động từ thiện- xã hội không chỉ là sự thể hiện tinh thần từ bi, cứu khổ cứu nạn của tín đồ Phật giáo mà còn là một biểu hiện quan trọng chức năng hỗ trợ xã hội của Phật giáo. Ở góc nhìn Tôn giáo học, chức năng hỗ trợ xã hội được hiểu:
“Dù ít hay nhiều, con người thường phải đối mặt với khó khăn, hiểm nguy, thất bai, thiên tai, bệnh tật,…cái chết của những những người thân thuộc, yêu quí và cái chết của chính bản thân mình. Trong những lúc như thế, cuộc sống con người rất dễ bị tổn thương và trở nên vô nghĩa, niềm tin tôn giáo giúp cho con người khó bị rơi vào tuyệt vọng hơn. Một số tôn giáo còn cung cấp cho con người những biện pháp cầu nguyện, cúng bái thần linh trong niềm tin rằng rằng những việc làm như vậy sẽ giúp cải thiện được tình hình”.[2]
2. Hoạt động từ thiện xã hội, một phương thức nhập thế của Phật giáo:
Do đặc trưng của Phật giáo nên tới đâu Phật giáo đều lan tỏa triết lý nhập thế và cứu khổ cứu nạn. Lâu dần cùng thời gian và nếp sống, triết lý Phật giáo đi vào đời sống mỗi dân tộc như một nét đẹp riêng về văn hóa, về phong tục tập quán trong đối nhân xử thế, trong giúp đỡ nhau lúc khó khăn. Trên thế giới, mỗi quốc gia có một nếp sống theo phong tục tập quán khác nhau, song giống nhau ở chỗ, cùng tôn trọng giá trị của sự sống, tôn trọng và đề cao sự tốt đẹp của chân thực và tình thương yêu con người. Điểm tương đồng của xã hội đã là cơ sở để Phật giáo ăn sâu bén rễ và phát huy hoạt động nhập thế vào đời sống xã hội của các quốc gia khác nhau, các hoạt động từ thiện xã hội xuất phát từ tâm từ bi của Phật giáo được thể hiện phong phú trong hoàn cảnh đời sống xã hội mỗi nước:
“Đức Phật dạy chúng ta đến bằng tâm đại bi, đến đâu chỉ nhằm mang đến niềm vui và hóa giải được nỗi khổ niềm đau cho con người, không làm được như vậy thì không đến, làm được như vậy người sẽ nghĩ tốt về ta, tự nhiên họ trở thành quyến thuộc Bồ đề của ta”.[3]
Việt Nam là một quốc gia thường xuyên bị thiên tai, chiến tranh tàn phá, đời sống con người phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, con người đã trải bao đau khổ mất mát do tàn phá của chiến tranh xâm lược. Khi du nhập vào Việt Nam, tinh thần nhập thế Phật giáo nhanh chóng hòa quyện cùng những triết lý sống của người dân Việt và đã trở thành những phương châm sống vì con người, hết sức thiết thực, cụ thể như: “Lá lành đùm lá rách”, “Thương người như thể thương thân”, “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”,….Đối với việc hành thiện tích phúc, người Việt đã đề cao giá trị của việc tôn trọng sự sống và hạnh phúc của con người khi hành động cứu người hoạn nạn: “Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người”. Phật giáo Việt Nam luôn thể hiện tinh thần nhập thế trong hành đạo, thường xuyên tổ chức các hoạt động từ thiện, giúp đỡ những người gặp khốn khó và bất hạnh trong xã hội. Đây là yếu tố quan trọng giúp cho Phật giáo gắn chặt và đồng hành cùng với dân tộc Việt Nam trong tiến trình lịch sử.
Ngày nay, Việt Nam là quốc gia đang phát triển và có nhiều thành tựu nổi bật trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Cùng với sự phát triển nhiều mặt của đời sống, kinh tế - xã hội, đồng thời cũng xuất hiện những vấn đề xã hội bức xúc nổi lên như tình trạng thiếu việc làm, việc dân cư đổ xô về các đô thị lớn, nghèo đói và thất nghiệp có chiều hướng gia tăng, đạo đức xã hội thể hiện những vấn đề trái chiều ngày một sâu sắc, môi trường tự nhiên bị tàn phá, tài nguyên bị khai thác bừa bãi kém hiệu quả, môi trường xã hội xuất hiện nhiều bất cập lớn tác động xấu đến cuộc sống con người như: tệ nạn xã hội phát triển mạnh, học sinh bỏ học, gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội có xu hướng tăng dần, một số số liệu cụ thể:
- Tỷ lệ hộ nghèo đã thoát nghèo nhưng nằm sát chuẩn nghèo rất lớn (70-80%), tỷ lệ tái nghèo còn cao khoảng 7-10%, hộ nghèo chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn (90%). Vùng miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số hiện có 62 huyện tỷ lệ hộ nghèo trên 50%. Phân hóa giàu nghèo có xu hướng tăng, chênh lệch về thu nhập của nhóm 20% dân số giàu nhất (nhóm 5) so với nhóm 20% dân số nghèo nhất (nhóm 1) lên tới 8,4 lần, chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị vẫn trên 2,5 lần [4].
- Nạn mất đất nông nghiệp đang trở thành vấn đề cần báo động. Diện tích đất trồng lúa nước năm 2006 là 4.130.940 ha, giảm 206.810 ha so với năm 2000. Trong 5 năm qua, có 13% số hộ bị thu hồi đất, trung bình mỗi hộ là 2 mảnh, nhưng tỉ lệ đất chuyển nhượng qua thị trường mua bán chỉ có 9% [5].
Lý do đất nông nghiệp thu hẹp là do bị nhà nước thu hồi, chủ yếu để phục vụ xây dựng các khu công nghiệp, các công trình công cộng, nổi bật nhất là các tỉnh: Lào Cai, Hà Tây, Phú Thọ, Nghệ An. Nhóm hộ nghèo là nhóm hộ bị nhà nước thu hồi nhiều nhất. Trong giai đoạn 2001-2005, tổng số hộ nông dân bị thu hồi đất trên cả nước là 627.495 hộ, trong đó Hà Nội là 138.291 hộ, Thành phố Hồ Chí Minh là 52.094 hộ, Bắc Ninh là 40.944 hộ, Hưng Yên là 31.033 hộ,….[6] .
Các vấn đề xã hội này đang trở thành thách thức ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Trước tình hình đó, Phật giáo với hoạt động nhập thế tích cực thông qua các hoạt động từ thiện xã hội đã, đang và sẽ đóng vai trò quan trọng, góp phần với nhà nước trong việc thực hiện an sinh và đảm bảo công bằng xã hội. Đây cũng là cơ duyên để Phật giáo Việt Nam khẳng định vai trò đồng hành và gắn bó cùng dân tộc.
3. Quản lý nhà nước đối với Phật giáo tham gia xã hội hóa
Quản lý nhà nước trong việc phát huy vai trò của Phật giáo tham gia xã hội hóa hoạt động từ thiện nhân đạo là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý. Cơ sở cho việc quản lý đó bắt nguồn từ quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo được cụ thể hóa thông qua chính sách pháp luật về tôn giáo trong từng giai đoạn cụ thể của cách mạng:
- Quản lý để thực hiện tự do tín ngưỡng tôn giáo
Tự do tín ngưỡng tôn giáo là một trong những quan điểm xuyên suốt của Đảng ta. Trong bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 02 tháng 9 năm 1945 đã khẳng định: “ Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [7].
Đối với Phật giáo, trong thư gửi Hội Phật tử Việt Nam ngày 15 tháng 7 (âm lịch) năm 1947, Hồ Chủ tịch khẳng định: “Từ ngày nước ta trở nên dân chủ cộng hòa, Hiến pháp ta tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì Phật giáo cũng phát triển một cách thuận tiện. Thế là: nước có độc lập,thì đạo Phật mới dễ mở mang” [8] .
Hồ Chủ tịch đã đánh giá cao hoạt động nhập thế của tôn giáo trong đó có đạo Phật qua tấm gương và tư tưởng của người khai sáng ra tôn giáo: “ Đức Giê su huy sinh vì muốn loài người được tự do, hạnh phúc”. “ Suốt đời Ngài chỉ huy sinh phấn đấu cho tự do, cho dân chủ”. Theo Người, Phật ra đời cũng chính là để : “Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha”[9].
Quản lý để đảm bảo bình đẳng các tôn giáo trước pháp luật là cơ sở để đoàn kết các tôn giáo cùng nhau bảo vệ và xây dựng đất nước nhằm thực hiện mục tiêu vì cuộc sống của con người, qua đoàn kết các tôn giáo để phát huy những giá trị tích cực của các tôn giáo đóng góp cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt đóng góp qua thế mạnh của các tôn giáo là hoạt động từ thiện, nhân đạo. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết”[10].
Bình đẳng tôn giáo là quan điểm xuyên suốt của Đảng và nhà nước ta, được pháp điển hóa bằng Hiến pháp của nước ta qua các giai đoạn cách mạng. Trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 đã khẳng định:
(Điều thứ 7). Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình.
(Điều thứ 10). Công dân Việt Nam có quyền:Tự do ngôn luận. Tự do xuất bản. Tự do tổ chức và hội họp. Tự do tín ngưỡng.
Trải qua các giai đoạn lịch sử , Hiến pháp nước ta đã một số lần điều chỉnh, tuy nhiên tự do tôn giáo luôn được tôn trọng. Gần đây nhất Hiến Pháp năm 2013, quyền tự do tôn giáo đã khẳng định: (điều 24).
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Từ Hiến pháp văn bản pháp luật cao nhất, đã được cụ thể hóa quản lý tôn giáo về hoạt động từ thiện xã hội thông qua những văn bản pháp quy khác nhau phù hợp với thực tiễn tôn giáo và xã hội, trong những giai đoạn lịch sử cụ thể, điển hình một số văn bản như:
- Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo, quy định tại điều (Điều 17):
1.Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo được hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội như mọi công dân khác.
2.Chức sắc, nhà tu hành và tổ chức tôn giáo hoạt động từ thiện theo quy định của Nhà nước. Các cơ sở từ thiện do chức sắc, nhà tu hành và tổ chức tôn giáo bảo trợ hoạt động theo sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng của Nhà nước.
- Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo của Ủy ban thường vụ Quốc Hội số 21/ 2004/PL-UBTVQH11 ngày 18 tháng 6 năm 2004 quy định tại (Điều 33):
1. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức tôn giáo hỗ trợ phát triển các hình thức mở trường, lớp nhà trẻ, mẫu giáo, tham gia nuôi dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; hỗ trợ cơ sở chăm sóc sức khoẻ người nghèo, người tàn tật, người nhiễm HIV/AIDS, bệnh nhân phong, tâm thần; hỗ trợ phát triển các cơ sở giáo dục mầm non và tham gia các hoạt động khác vì mục đích từ thiện nhân đạo phù hợp với hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và quy định của pháp luật.
2. Chức sắc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo với tư cách công dân được Nhà nước khuyến khích tổ chức hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo theo quy định của pháp luật.
- Luật tín ngưỡng tôn giáo, được Quốc Hội thông qua ngày 18 tháng 11 năm 2016 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 đã quy định: tại chương 5, Hoạt động tôn giáo, hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo của tổ chức tôn giáo. (Điều 55).
Được tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo theo quy định của pháp luật có liên quan.
Quản lý để phát triển giá trị văn hóa đạo đức lối sống tốt đẹp của tôn giáo:
Đảng ta và Bác Hồ luôn có góc nhìn rất nhân văn về tôn giáo. Trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng Hồ Chủ tịch luôn khai thác các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo để thực hiện đoàn kết toàn dân tộc, để cùng nhau xây dựng lý tưởng chung. Từ năm 1943, trong định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh đã xác định tôn giáo là một bộ phận của văn hóa, Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt động hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo đó tức là văn hóa”[11].
Năm 1990, tại nghị quyết số 24/NQ-TW của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”.
Năm 2003 Nghị quyết số 25/NQ- TW của ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, về công tác tôn giáo đã khẳng định:
1- Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2- Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
3- Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong hoạt động từ thiện xã hội, Phật giáo đang là tôn giáo gương mẫu đi đầu, thể hiện tấm gương về đạo đưc, lối sống, là tấm gương để các tôn giáo cùng xã hội chung tay góp sức thực hiện chủ trương của Đảng, vận động toàn dân thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
4. Thực trạng hoạt động xã hội hóa từ thiện của GHPGVN từ 2007 đến 2016
Hoạt động xã hội hóa từ thiện, nhân đạo là một trong những công tác Phật sự trọng yếu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN), công tác từ thiện và sự nghiệp chăm lo an sinh xã hội đã được Giáo hội chỉ đạo Tăng Ni, Phật tử và các chùa, tự viện các thành viên thực hiện thường xuyên, liên tục, kịp thời. Các hoạt động thường xuyên của các trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi, người già cô đơn, người tàn tật; các trung tâm khám chữa bệnh, Tuệ tĩnh đường đông y và bệnh viện tây y hoạt động đều đặn. Giáo hội luôn có mặt đúng lúc và kịp thời cứu trợ đồng bào bị thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn và tham gia tích cực ủng hộ phong trào xóa đói giảm nghèo, chăm sóc các đối tượng người có công với đất nước. Phát quà từ thiện, xây cầu, làm đường, phát xe lăn, hiến máu nhân đạo, quỹ khuyến học, ủng hộ các chiễn sĩ biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Tổ quốc…
Ngoài các hoạt động cứu trợ, từ thiện trong nước, GHPGVN còn thực hiện cứu trợ giúp đỡ nhân dân các nước bị thiên tai, dịch bệnh,…
Nâng cao chất lượng về công tác xã hội, GHPGVN đã tổ chức. tham dự Hội thảo, hội nghị chuyên ngành từ thiện xã hội trong và ngoài nước. Tập huấn về phòng, chống và giảm thiểu kỳ thị đối với những người bị nhiễm/ảnh hưởng bởi HIV và AIDS; và Hội nghị các tôn giáo đóng góp ý kiến vào dự thảo Chương trình hành động phát huy vai trò của các Tôn giáo Việt Nam trong phòng, chống HIV và AIDS, do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức. Tổ chức Hội thảo chuyên đề “Nuôi dạy trẻ mẫu giáo, cơ nhỡ, mồ côi” , giúp đỡ người già cô đơn, lập các trường dạy nghề cho trẻ khó khăn. Hiện tại các cơ sở của GHPGVN có trên 1.000 trường mầm non, hàng trăm cơ sở giúp đỡ người già không nơi nương tựa, trên 10 trung tâm dạy nghề miễn phí cho trẻ em nghèo, trẻ khó khăn.
Xây dựng và phát triển hệ thống Tuệ Tĩnh đường, Phòng chẩn trị Y học dân tộc, phòng khám Đông, Tây y. Hiện nay, trong toàn Giáo hội có 165 Tuệ Tĩnh đường, và hàng trăm phòng chẩn trị y học dân tộc, châm cứu, bấm huyệt, vật lý trị liệu, khám và phát thuốc nam, thuốc bắc; có trên 10 phòng khám Tây y, Đông – Tây y kết hợp đã khám và phát thuốc từ thiện cho hàng trăm ngàn lượt bệnh nhân, với kinh phí lên đến hàng chục tỷ đồng.
Trong thời gian từ 2007 đến 2016 huy động cứu trợ, giúp đỡ người khó khăn, cơ nhỡ, tàn tật, xây cầu, dựng nhà tình nghĩa,... của GHPGVN bình quân là 800 tỉ đồng một năm, trong 10 năm là 8.000 ( tám ngàn tỉ đồng) [12]. Kết quả đó của Phật giáo đã góp phần thiết thực vào chương trình xóa đói, giảm nghèo, giảm bớt những chi phí của Chính phủ để giải quyết chương trình này.
5. Kiến nghị trong việc quản lý nhà nước đối với hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo
Chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ta đối với tôn giáo ngày càng thể hiện sự cởi mở trong đó có lĩnh vực hoạt động xã hội hóa từ thiện của tôn giáo. Tuy đã có sự thông thoáng và cởi mở nhưng trước tác động của nền kinh tế thị trường đến mọi lĩnh vực của đời sống. trước thực tiễn yêu cầu ngày càng cao của xã hội, việc tôn giáo được tham gia xã hội hóa từ thiện, nhân đạo đang đặt ra những vấn đề mới, cần được nghiên cứu, quan tâm hơn, cụ thể hơn ở một số khía cạnh:
Thứ nhất, Quy định mang tính pháp lý cho hoạt động xã hội từ thiện nhân đạo của tôn giáo. Trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn về kinh tế, cơ sở y tế, giáo dục chưa đủ đáp ứng nhu cầu xã hội, đạo đức xã hội đang có nhiều vấn đề cần quan tâm vì tệ nạn tham nhũng, sách nhiễu đối với người dân thì xã hội hóa y tế, giáo dục do các tôn giáo thực hiện có ý nghĩa rất lớn không chỉ giải quyết khó khăn về vật chất mà cải thiện cả đạo đức xã hội thông qua tinh thần phục vụ vô điều kiện của tôn giáo “ phục vụ từ tâm”. Tuy nhiên Chính sách, pháp luật về xã hội hóa từ thiện của các tôn giáo chưa được cụ thể, chưa đủ cơ sở để phát huy hết tiềm năng từ hoạt động này của các tôn giáo. Luật tín ngưỡng tôn giáo, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 chỉ quy định: tại chương 5, Hoạt động tôn giáo, hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo của tổ chức tôn giáo. (Điều 55).
Được tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo theo quy định của pháp luật có liên quan.
Thứ hai, Quản lý kinh tế hoạt động xã hội hóa từ thiện nhân đạo của tôn giáo. Hoạt động xã hội hóa từ thiện nhân đạo của tôn giáo là hoạt động tự nguyện đối với tôn giáo nói chung (Phật giáo nói riêng), thể hiện trách nhiệm và tình cảm của người có tôn giáo đối với những người có hoàn cảnh khó khăn đồng thời thể hiện trách nhiệm của công dân muốn góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Hoạt động này rất cần khuyến khích, tuy nhiên cũng cần được quản lý chặt chẽ thông qua quy định của pháp lý, qua quy định và giám sát của tổ chức tôn giáo và cơ quan có trách nhiệm để đảm bảo tính công khai, minh bạch. Qua đó mới thật sự khuyến khích việc làm mang ý nghĩa nhân văn và tạo hiệu quả cao cho hoạt động này .
Thứ ba, Nâng tầm hoạt động xã hội từ thiện của GHPGVN . GHPGVN là một tổ chức tôn giáo lớn, để góp phần giải quyết hiệu quả hơn các vấn đề xã hội đang đặt ra cho xã hội ta hiện nay qua hoạt động xã hội hóa từ thiện nhân đạo, Nhà nước nên có nghiên cứu, đánh giá và có sự giúp đỡ để GHPGVN nâng hoạt động này lên mức chuyên nghiệp hơn đó là công tác xã hội . Hoạt động từ thiện xã hội dừng ở mức hỗ trợ vật chất mang tính nhất thời, sự vụ, công tác xã hội mang tính khoa học, tính kế hoạch liên tục trong việc góp phần thúc đẩy sự thay đổi xã hội, thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề trong quan hệ của con người. Thực hiện quyền con người, góp phần tích cực hơn trong thực hiện các chính sách xã hội của nhà nước.
Thứ tư, Linh hoạt và đa dạng trong xã hội hóa từ thiện xã hội. Xã hội càng phát triển thì phân tầng xã hội càng lớn, người cần được hỗ trợ, giúp đỡ càng đa dạng như: người khó khăn nhập cư, người nghèo, người sống trong các khu dân cư nghèo và vùng bị ô nhiễm môi trường , người già lang thang cơ nhỡ, người khuyết tật, trẻ em vô gia cư, công nhân nghèo trong các khu công nghiệp, người thiếu việc làm do bị mất đất, mất việc làm trong vùng đô thị hóa, người dân trong các khu vực bị thiên tai, bệnh dịch, người mắc bệnh hiểm nghèo… Trước đa dạng đối tượng ấy, những hoạt xã hội hóa từ thiện, nhân đạo của tôn giáo không chỉ dừng lại ở phương diện hỗ trợ vật chất nhất thời, mà còn bằng kế hoạch lâu dài nhằm cải thiện để khắc phục hiệu quả. Tôn giáo không chỉ đến với họ bằng vật chất mà cả bằng tinh thần để giúp họ cả thân và tâm.
Thứ năm, Hoạt động xã hội hóa từ thiện, nhân đạo nên đa dạng hình thức, phương thức và hướng tới xây dựng giá trị đạo đức văn hóa tốt đẹp cho mọi tầng lớp xã hội. Từ thiện xã hội của Phật giáo nhằm cứu người, giúp đời. Tuy nhiên GHPGVN cần có định hướng cụ thể để từng cơ sở Phật giáo, từng địa phương quan tâm giải quyết tốt trên địa bàn địa phương, thông qua vai trò của các tăng, ni trụ trì ở các tự viện nêu cao tấm gương, nâng cao bài học về tinh thần tương thân, tương ái. Lấy hiệu quả thiết thực làm chính chứ không phải làm vì phong trào, vì uy tín,.. ./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Kinh Dược Sư bổn nguyện công đức (âm-nghĩa), Thích Huyền Dung dịch, Hà Nội, Nxb.Tôn giáo, 2002,tr 99.
[2] Trần Hồng Liên, Tìm hiểu chức năng xã hội của Phật giáo Việt Nam, Tp.HCM, Nxb. Tp.HCM, 2010, tr 14..
[3] HT Thích Trí Quảng, Phật giáo nhập thế và phát triển (quyển 3), NXB.Tổng hợp. TPHCM, 2011, tr 93].
[4] Nguyễn Hữu Dũng, Bảo đảm gắn kết chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong chiến lược phát triển nước ta đến năm 2020, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 163, tháng 1/2011, tr 11.
[5],[6] Đặng Kim Sơn, Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam hôm nay và mai sau, Hà Nội, Nxb.Chính trị Quốc gia, 2008, tr 101.
[7] Bộ Tư pháp, Việt Nam với vấn đề quyền con người, Hà Nội 2005, tr 18.
[8] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, NXBTG, Hà Nội 2003, tr 11.
[9][Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, NXBTG, Hà Nội 2003, tr 95.
[10] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, NXBTG, Hà Nội 2003, tr 16.
[11] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, NXBTG, Hà Nội 2003, tr 89.
[12]. Báo cáo công tác từ thiện xã hội của GHPGVN từ 2007-2016.