QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG KINH PALI CỦA PHẬT GIÁO

Thứ bảy - 25/12/2021 10:01

QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG KINH PALI CỦA PHẬT GIÁO

ThS. Nguyễn Văn Thơm (Thích Hạnh Kính). Bài in trong cuốn sách: "Đào tạo Tôn giáo học ở Việt Nam quá trình hình thành và phát triển" của Bộ môn Tôn giáo học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, Nxb. Tôn giáo, 2017, tr. 437-445.
 
         Đạo Phật ra đời khi mà xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ đã có một nền văn minh phát triển rực rỡ, với một di sản tư tưởng và tôn giáo rất bề thế. Vì vậy, để cho triết thuyết của mình có thể đứng vững trước thuyết tạo thần của đạo Bàlamôn, Đức Phật đã xây dựng thuyết nhân duyên sinh làm nền tảng cho học thuyết của mình
       Kinh Phật nói rằng: "Nhất thiết pháp, nhân duyên sinh".
       Với thuyết nhân duyên sinh, Phật muốn nói lên một định lý: mọi sự vật, vạn pháp trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành; sự vật, vạn pháp sẽ biến diệt khi nhân duyên tan rã.
       Nhân là nguyên nhân, là năng lực tiềm ẩn của mọi sự hình thành, biến đổi. Không có gì là không có nguyên nhân. Duyên là những quan hệ, những điều kiện, những ảnh hưởng chung quanh giúp cho nhân phát khởi hiện hành. Tất cả các hiện tượng đều nương nhau mà thành lập - Nói nương nhau có nghĩa là sự vật tác động, kết hợp, chi phối, ảnh hưởng, đối đãi lẫn nhau mà thành. Tất cả mọi hiện tượng đều có quan hệ mật thiết với nhau, không một hiện tượng nào được thành lập, ngoài sự nương vào nhau, ngoài sự liên hệ trực tiếp với nhau. Đó là nhân duyên.
      Nói về thuyết nhân duyên, trong kinh "Phật Tự Thuyết" (tiểu bộ I  tr. 291) đã có câu:
 
    Nhược thử hữu, tắc bỉ hữu,
     Nhược thử sinh, tắc bỉ sinh,
Nhược thử vô, tắc bỉ vô,
     Nhược thử diệt, tắc bỉ diệt.
Nghĩa là:
                  Cái này có thì cái kia có,
                       Cái này sinh thì cái kia sinh,
                              Cái này không thì cái kia không,
                                           Cái này diệt thì cái kia diệt[1]  [3, 95]
 
              Tất cả các pháp đều sinh diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với nhau, không một pháp nào có thể tồn tại độc lập và trường tồn, nhất thành bất biến.
               Trong Kinh "Thủ Lăng Nghiêm "có đoạn viết:
 
          Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sinh
         Nhân duyên biệt ly, hư vọng danh diệt.
 
         Cho nên sinh cũng chẳng thực sinh, mà diệt cũng chẳng thực diệt. Khi nhân duyên hội họp thì nói là sinh, khi nhân duyên tan rã thì nói là diệt.
         Trong kinh "Đại Bát Niết Bàn" có viết:
                                  “Nhất thiết chư pháp, bản vô hữu tính, nhân duyên cố sinh, nhân duyên cố diệt".
          Nghĩa là:
          Hết thảy mọi pháp,
              Đều không có tự tính,
                 Vì nhân duyên mà sinh,
                 Vì nhân duyên mà diệt.
 
             Ở một chương khác Phật lại nói:
 
                  Tòng duyên sinh cố,
             Danh chi vi hữu,
         Vô tự tính cố,
            Danh chi vi vô  
 
             Có nghĩa là:
            Tùy theo duyên mà hiện ra hình như có sinh, cho nên gọi là "có"; bởi không có tự tính, cho nên gọi là "không". Sự vật chỉ "có" một cách giả tạo, một cách vô thường, nhân duyên hội họp thì sự vật là "có", nhân duyên tan rã thì sự vật là "không".
           Thế giới vũ trụ, vạn pháp, con người đều cấu thành bởi vô số nhân và trùng trùng duyên khởi. Các pháp không có thực thể, chỉ vì nhân duyên hòa hợp chúng hiện hữu một cách giả hợp. Bởi thế tìm kiếm đến cùng không thấy vạn pháp có "thủy" và xét đến muôn đời, muôn kiếp về sau cũng không thấy vạn pháp có "chung".
          Thuyết nhân duyên sinh cho chúng ta thấy chỉ có nhân và có duyên chứ không thực có sự vật. Tất cả những pháp có mặt trên cuộc đời, thế gian này từ thế giới của sự vật, hiện tượng cho đến thế giới bí ẩn của ý niệm sâu xa đều do các nhân, các duyên tương tác lẫn nhau mà hình thành: do cái này có mà cái kia mới có. Từ đó, Phật giáo cho rằng, sự vật không phải tự nhiên mà có, cũng chẳng phải do một đấng thiêng liêng nào tạo ra mà mọi sự vật sinh ra là đều có nguyên nhân của nó. Cái nguyên nhân một mình cũng không tạo ra được sự vật mà phải có đủ duyên mới tạo ra quả được. Quả sinh ra lại có thể nếu gặp đủ duyên, biến thành nhân, để rồi sinh ra quả khác và lại thế nối tiếp nhau sinh sinh hóa hóa. Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân đã sinh ra nó, quả có thể hơn nhân nếu đủ duyên tốt. Trái lại, quả có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu. Sự vật là một chuỗi nhân quả, ảnh hưởng lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng. Sự duyên khởi dây chuyền của một sự vật đối với tất cả sự vật, của tất cả sự vật đối với một sự vật thì gọi là pháp giới trùng trùng duyên khởi. Đó là thuyết nhân quả.
         Giáo lý nhân duyên sinh của Phật giáo đưa đến hai hệ quả trực tiếp: thuyết vô thường và thuyết vô ngã, chi phối nhân sinh quan Phật giáo.
         Thuyết vô thường (Amicca) là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là một cơ sở lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của những con người tu dưỡng theo giáo lý Phật.
         Vô thường là không thường còn, là chuyển biến thay đổi. Theo thuyết vô thường chỉ ra các pháp (sự vật, hiện tượng, con người) luôn biến dịch, không có gì là thường trụ, bất biến. Sự chuyển biến ra trong từng sátna (Kshana) - sự chuyến biến rất nhanh trong thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một cái nháy mắt, một hơi thở, một niệm, một sự chuyển biến vừa khởi lên đã vụt chấm dứt. Sự chuyển biến này diễn ra nhanh chóng, ngấm ngầm thường ta không nhận thức kịp mà kết quả là dẫn đến sự chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ chuyển sang một trạng thái mới. Do vậy, vạn vật vô tình trong vũ trụ đều tuân theo qui luật: Thành - trụ - hoại - không. Mọi vật được cấu thành, trụ một thời gian, biến chuyển đi đến diệt, hoại thành không.
           Các sinh vật đều tuân theo qui luật: Sinh - trụ - dị - diệt.
         Chung quanh ta, sự vật biến chuyển không ngừng. Theo luật vô thường thì không phải khi vạn vật sinh ra mới gọi là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là diệt, mà từng phút, từng giây, từng sátna, sự sống và sự chết đã từng liên tiếp xảy ra.
        Từ thuyết vô thường, Phật nói sang thuyết vô ngã (Anatta): Vô ngã là không có cái Ta trường tồn vĩnh cửu. Theo nguyên lý duyên sinh, các sự vật đều là các pháp duyên sinh. Tất cả sự vật (các pháp) có hình, có tướng đều do những bộ phận hợp lại mà thành, đều là nhất hợp tướng, đều có thể chia chẻ ra được. Tất cả sự vật đều đối đãi với nhau mà thành lập: Tâm đối với cảnh, cảnh đối với thân, lớn đối với nhỏ, dài đối với ngắn, sống đối với chết, có đối với không. Tất cả sự vật đều do đối đãi với nhau mà thành nên đều vô ngã, đều không có tự tính: Thân vô ngã, tâm vô ngã, cảnh vô ngã.
         Với nguyên lý cơ bản trên đây, Đức Phật trình bày những vấn đề về nhân sinh: Con người từ đâu mà có? Con người được sinh ra như thế nào? Cuộc đời con người ra sao? Con đường giải thoát cho con người ?...
          Khi trả lời cho câu hỏi "Con người do đâu mà sinh ra?" Phật xác định con người là một chỉnh thể vũ trụ, là một tiểu vũ trụ, là kết quả của sự kết hợp giữa danh và sắc. Nghĩa là con người có đầy đủ cả hai phần sinh lý và tâm lý:
 
Cái ta sinh lý tức là thân (gọi là sắc uẩn).
                          Cái ta tâm lý tức là tâm (bao gồm thọ, tưởng, hành, thức).
 
       Theo Kinh "Trung A Hàm", con người sinh lý chỉ là sự kết hợp của bốn yếu tố vật chất, bốn đại là: địa, thủy, hỏa, phong. Các chất cứng, đặc, lỏng, chất sinh ra nhiệt và những rung động như hơi thở ra, sự hút không khí vào khi kết hợp lại tạo thành sắc thân con người (cái ta sinh lý). Khi chúng tách rời nhau trở về thể của nó thì không còn gì ở lại để có thể gọi là con người được nữa nên cái mà ta gọi là con người sinh lý chỉ là một giả tướng, một nhất hợp tướng mà thôi.
       Còn cái ta tâm lý là gì ?
      Theo Đức Phật, cái ta tâm lý bao gồm thụ, tưởng, hành, thức. Khi sắc thân con người được tạo thành thì lục căn (nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) mà sinh ra lãnh thọ (cảm giác). Sự cảm thụ đó sinh ra mọi ấn tượng, mọi cảm giác sướng, khổ, buồn, vui (tưởng). Sau khi tiếp xúc với cảnh vật sẽ tạo nên sự thay đổi biến chuyển của tâm niệm, sinh lòng ham muốn hay ghét giận (hành) và cuối cùng là sự xuất hiện hiểu biết, phân biệt sự vật (ý thức). Đó chính là thụ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Như vậy, mọi cảm giác nhận thức và suy tưởng - tóm lại là những hoạt động tinh thần của con người, đều phụ thuộc vào các giác quan và bộ não. Mọi sự hoạt động tinh thần, mà không có giác quan, nhất là không có bộ não thì không thể có được.
       "Thân thể người ta ví như một đám tro hồng nóng bỏng, mà cái lò lửa làm tro nóng chính là tinh thần người ta. Cái tinh thần sẽ bị hủy đi khi cái thân ta bị hủy, cũng như ánh sáng của cây nến bị tắt khi cây nến hết"[2].
       Như vậy, Đức Phật cho rằng con người bao gồm có hai phần vật chất và tinh thần kết hợp với nhau. Nhưng con người không phải tự nhiên mà sinh ra. Con người là một pháp duyên sinh, con người sinh ra là do nhân duyên hòa hợp và thức chuyển biến mà thành. Phật phân tích có mười hai nhân duyên là: Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thụ, Thụ duyên ái, ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sinh, Sinh duyên Lão, Tử. Các yếu tố vật chất khi hội đủ nhân và có duyên cần thiết sẽ hợp thành những thực thể hữu hình (thân xác con người) gọi là "sắc" và có "tâm" (ý thức) thì con người sống, hoạt động (tồn tại). Theo kinh "Đại Trương Duyên" nếu không có thức thì thân ngũ uẩn không thể hình thành. Mặt khác khi nhân duyên tan rã thì con người cũng không còn (chết đi). Sự tồn tại hữu hình của con người có ý thức chỉ là tạm thời (sắc sắc - không không) trong vòng luân chuyển liên tục của vô số nhân và trùng trùng duyên khởi.
        Với cách lập luận trên, đạo Phật đã chứng minh con người sinh ra là do nhân và duyên, không có một đấng tối thượng siêu nhiên nào tạo ra con người, cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh ra. Con người sinh ra là do nhân duyên, nhân duyên hòa hợp thì con người sinh, nhân duyên tan rã thì con người diệt. Có thể nói yếu tố vô thần của đạo Phật thể hiện ở đây.
         Khi trả lời câu hỏi: "Con người chết rồi đi đâu?", Đức Phật chỉ rõ: Con người là một pháp duyên sinh, là sự kết hợp động của ngũ uẩn. Vì vậy khi con người chết (ngũ uẩn tan rã) thì không còn cả thể xác lẫn linh hồn. Phật đã phủ nhận tư tưởng kinh Upanishad cho rằng có một linh hồn bất tử (linh hồn vũ trụ tối cao) tồn tại vĩnh viễn. Phật cho rằng chỉ có sự kết hợp mới của ngũ uẩn, mà động lực là nghiệp lực.
          Vậy nghiệp lực là gì ?
        Theo đạo Phật quan niệm trong suốt một đời người, tất cả những hoạt động về thân thể, về lời nói, về ý nghĩ đều huân tập nơi thức tâm, gọi là nghiệp (thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp) và kết quả của nghiệp ấy gọi là nghiệp báo.
       Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp (người), các hành động thiện ác được thực hiện, Phật gọi là con người gây nghiệp: Nghiệp thiện hay nghiệp ác. Con người sống một thời gian rồi chết. Khi chết ngũ uẩn tan rã (cả thể xác và linh hồn), nhưng nghiệp do con người tạo ra thì vẫn còn và tác hợp đưa đến một thể hợp mới của ngũ uẩn cho kiếp sau. Tùy theo nghiệp thiện hay nghiệp ác mà sự kết hợp mới đó sẽ theo một trong sáu con đường (lục đạo): trời, người, Atula, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh; cứ như thế mãi không bao giờ thoát ra khỏi, không bao giờ ngừng nghỉ, như chiếc bánh xe quay tít. Đó là luân hồi. Như vậy, nghiệp là một động lực, là những hạt giống gây ra một kết hợp mới của ngũ uẩn cho kiếp sau. Do đó, chỉ có một sự kết hợp mới của ngũ uẩn được gây ra bởi một nghiệp lực chứ không có linh hồn bất tử chuyển từ kiếp này sang kiếp sau. Mặc dù chúng sinh luân hồi trong lục đạo, nhưng đạo Phật quan niệm con người là một sinh vật tương đối hoàn bị hơn cả trong các loài chúng sinh về tổ chức cơ thể và khả năng tư duy nên trong Kinh "Hoa Nghiêm" có câu: "Nhân thị tối thắng" nghĩa là: Con người là hơn cả.
        Chỗ khác Phật lại nói: "Nhất thất nhân thân, vạn kiếp nan phục".
          Nghĩa là: Một khi mất thân người thì vạn kiếp khó mà trở lại làm người.
        Chính vì lẽ đó, Phật khuyên con người hãy tạo nghiệp thiện hoặc đã trót tạo nghiệp ác thì cần phải sám hối và tu hành để chuyển nghiệp, hy vọng kiếp sau sẽ được trở lại làm người.
       Theo Phật giáo, con người là một pháp do duyên sinh tạo nên. Cho nên con người cũng không nằm ngoài sự chi phối của quy luật Vô thường. Trong đời một con người từ lúc sinh cho đến lúc diệt, thân sinh lý và thân tâm lý đã biến đổi không ngừng: sinh - lão - bệnh - tử. Cái Ta ở sátna trước đã không phải là cái Ta ở sátna sau, nhưng cũng không khác với cái Ta trước đó. Đã có đổi thay tất phải có lúc tiêu diệt, không ai có thể dừng được sự thay đổi nhanh chóng của thân. Sự tồn tại của sắc thân con người mỏng manh tạm bợ như hơi thở. Một hơi thở ra mà không hít vào, tức là đời sống của thân không còn, giờ tan rã sắp đến, nên có câu: "Nhân mạng tại hô hấp gian". Không chỉ sắc thân con người luôn biến chuyển; thụ, tưởng, hành, thức cũng biến động không ngừng. Từng phút, từng giây, từng sátna, ta có những cảm giác mới, những nhận thức mới, những suy tưởng mới. Con người sinh ra rồi lại chết đi để một sinh linh mới ra đời. Khi trả lời câu hỏi: "Đời người ta dài bao nhiêu?" Phật cho rằng: "Đời người dài một niệm". Một niệm khởi lên rồi diệt đi, thế là một đời người hết. Một niệm khác khởi lên, tức là một đời người khác đời người trước tiếp tục. Sự sống và chết tiếp diễn liên tục nối tiếp nhau bất tận như trên một cái vòng tròn theo quy luật luân hồi. Hiểu theo Phật, chết không phải là hết, chết là điều kiện cho một cái sinh sắp tới. Khi chết ngũ uẩn tan rã phân tán, nhưng nghiệp của con người vẫn tiếp tục chi phối, khi gặp một điều kiện nhân duyên thuận lợi con người lại được tái tạo thành một sinh linh mới.
          Từ quan điểm Vô thường về con người, đạo Phật đi đến phủ nhận sự tồn tại của cái Ngã (cái tôi, cái Ta của con người). Con người là kết quả của sự kết hợp giả tạm của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) nhưng Phật lại cho rằng tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong vốn là không, và ngũ uẩn cũng chẳng có. Ngũ uẩn tụ hợp sẽ sinh ra con người, ngũ uẩn ly tán thì con người sẽ chết cho nên cái Ta chỉ là một giả tướng, một nhất hợp tướng mà thôi chứ không có cái Ta thực tướng, cái Ta bất biến, cái Ta trường tồn. Sắc thân con người do cha mẹ sinh ra, do tứ đại, ngũ uẩn hợp thành, là cái thân hiện hữu trong thế giới nhưng chỉ là ảo ảnh. Phật nói:
           "Sắc đã được cái vô ngã (tứ đại) làm cho sinh khởi; từ đâu là ngã được? Sắc đã được cái vô thường làm cho sinh khởi; từ đâu mà thường được?".
         Quan điểm Vô ngã của đạo Phật đã phủ nhận sự tồn tại đích thực của chính bản thân con người. Như vậy, theo Đức Phật, cái Ta là giả tạm, là không thường còn. Nhưng tại sao con người lại có cảm giác về sự bất biến, trường trụ của thân ta ? Sở dĩ ta có cảm giác đó là do các giả tướng diễn ra liên tục, nối tiếp nhau với tốc độ rất nhanh đến nỗi ta không nhận thức kịp và tưởng là bất biến. Vì chấp cái "Ta" thường còn, bất biến, cho nên đến phút cuối cùng của đời người, con ngưòi vẫn còn tham vọng, cố bám lấy cái Ta, cái giả tưởng đó, có nhiều dục vọng, vị kỷ. Vì vậy con người không thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, làm cho sinh sinh tử tử không bao giờ ngừng. Chấp ngã, chấp có cái Ta thường còn là nguồn gốc của vô minh, mà vô minh là đầu mối của luân hồi sinh tử, sinh ra đau khổ cho con người.
            Dựa trên nguyên lý duyên sinh, Phật giáo khi trình bày về vấn đề: "con người từ đâu sinh ra?" và "con người được sinh ra như thế nào?" Đã nêu ra nhiều luận điểm triết học thâm trầm sâu sắc phủ nhận vai trò của một đấng siêu nhiên tối cao trong việc sáng tạo ra con người, khi cho rằng con người là kết quả của sự kết hợp của ngũ uẩn. Những tư tưởng "vô thường", "vô ngã" đã chứa đựng những yếu tố biện chứng khi xem xét sự vật hiện tượng trong quá trình vận động của nó, thể hiện một sự nhận thức có chiều sâu. ở đây cũng bộc lộ quan điểm biện chứng không triệt để của đạo Phật khi tuyệt đối hóa sự vận động biến đổi đi đến phủ nhận sự tồn tại hiện thực của con người, sự vật (coi con người, sự vật chỉ là giả tướng), dễ đem lại sự bi quan và thái độ buông xuôi cho con người.
           Phật giáo không thừa nhận có "linh hồn bất tử". Tuy khác với các tôn giáo khác khi cho rằng linh hồn cùng với thể xác đều tan rã khi con người đã chết, tất cả đều trở về với những yếu tố ngũ uẩn ban đầu, song tư tưởng về sự đền bù hư ảo về một kiếp sau của vòng luân hồi vô tận có sự phán xét công minh của nghiệp báo và báo ứng, v.v... vẫn là "thuốc phiện" cho nỗi bất lực của con người hiện thực trong đời sống xã hội ở trần gian.


Tài liệu tham khảo

1. Trần Văn Anh(1998): Báo người công giáo Việt Nam, số 27, ra ngày 4 tháng 07.
2. Doãn Chính (1997):Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ, Nxb CTQG Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Chế (1976):Những vấn đề cơ bản trong Phật học. Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam xuất bản.
4. Nguyễn Duy Hinh (2007): Triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin, Viện văn hoá.
5. Thích Chơn Thiện (1999): Lý  thuyết nhân tính qua Kinh tạng Pàli, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
 
 

[1] Nguyễn Văn Chế (1976):Những vấn đề cơ bản trong Phật học. Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam xuất bản, tr.96.
[2] Nguyễn Văn Chế (1976):Những vấn đề cơ bản trong Phật học. Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam xuất bản, tr.81
 

Tác giả: Tư liệu - Thăng Long Library

Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://nukeviet.vn là vi phạm bản quyền

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập4
  • Hôm nay1,754
  • Tháng hiện tại62,251
  • Tổng lượt truy cập681,841
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây